
Anonymous
0
0
Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2 - Ngắn nhất Cánh diều
- asked 2 months agoVotes
0Answers
0Views
Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2
I. Đọc hiểu
Yêu cầu (trang 118 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2)
a) Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu (từ câu 1 đến câu 6) bên dưới:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…
(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm)
Câu 1 (trang 119 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2)
A. Giàu tính tự sự
B. Thiên về giới thiệu
C. Đậm màu sắc miêu tả
D. Giàu chất triết lí, suy tưởng
Đáp án:
Câu 2 (trang 119 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2)
A. Không vần, có nhịp, không có hình ảnh
B. Không vần, có nhip, giàu chất liệu dân gian
C. Không vần, không nhịp, không biện pháp tu từ
D. Không vần, không nhịp, nhiều biện pháp tu từ
Đáp án:
A. Là câu chuyện cổ mẹ thường hay kể
B. Là câu chuyện hằng ngày của mẹ
C. Là lời ru của mẹ khi con còn nhỏ
D. Là câu ca xưa cũ mẹ khuyên nhủ con
Đáp án:
Câu 4 (trang 119 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2)
A. Sự tích trầu cau và Sự tích ông bình vôi
B. Truyện Thánh Gióng và Cây tre trăm đốt
C. Sự tích ông bình vôi và Cây tre trăm đốt
D. Sự tích trầu cau và truyện Thánh Gióng
Đáp án:
Câu 5 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2)
A. Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
B. Cái kèo, cái cột thành tên
C. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
D. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đáp án:
Câu 6 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2)
Trả lời:
Với hình thức thơ tự do, đoạn trích đã thể hiện được tình cảm da diết và những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ khi nghĩ về đất nước.
b) Đọc đoạn trích sau và làm các bài tập ở bên dưới:
(BÙI DUY TÂN, in trong Nguyễn Trãi, Về tác gia tác phẩm, NXB Giáo dục, 1999)
Câu 1 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2)
Trả lời:
Văn chính luận của Nguyễn Trãi có vai trò và sức mạnh hết sức to lớn trong chiến đấu, đánh giặc ngoại xâm.
Câu 2 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2)
Trả lời:
- Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là nghị luận.
- Mục đích: Thuyết phục người đọc về một vấn đề.
- Để thuyết phục phải nêu ý kiến, lí lẽ và bằng chứng.
Câu 3 (trang 121 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2)
Trả lời:
- Đoạn trích trên được triển khai theo kiểu tổng – phân – hợp.
- Mở đầu nêu ý kiến khái quát: “Nguyễn Trãi đã dùng văn học phục vụ chiến đấu, viết văn để đánh giặc”.
- Sau đó, phân tích, triển khai, phát triển ý khái quát với những lí lẽ và dẫn chứng từ hai tác phẩm chính luận nổi tiếng của Nguyễn Trãi là Đại cáo bình Ngô và Quân trung từ mệnh tập.
- Kết thúc, nêu khái quát giá trị văn chính luận của Nguyễn Trãi.
Câu 4 (trang 121 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2)
Trả lời:
II. Viết
Yêu cầu (trang 121 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2)
Đề 1. Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai.
Đề 2. Phân tích một vấn đề xã hội mà em thấy có ý nghĩa đặt ra trong các tác phẩm truyện hoặc thơ đã học trong sách Ngữ văn 10, tập hai.
Bài mẫu tham khảo
Đề 1. Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức của đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” (Ngô gia văn phái)
Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí đã cho thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh, em tranh giành quyền lực, việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng, không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân.
Cuộc tranh giành đó Trịnh Tông là kẻ đang bị thất thế, có nguy cơ bị hại, phải nhờ mẹ là thái phi họ Dương kêu với quận Huy mới bảo toàn được tính mệnh.
Lính kiêu binh phần nhiều đều thuộc phe của Trịnh Tông. Tông mà bị diệt trừ thì họ mất chỗ dựa và có thế bị diệt theo. Số phận của các đám gia thần, tôi tớ, binh lính của các tập đoàn phong kiến xưa nay là vậy. Có thể kế các nhân vật kiêu binh như: Dự Vũ, đầu bếp của Tông; Gia Thọ là gia thần, Bằng Vũ là gia binh. Chúng căm ghét quận Huy như kẻ thù của chúng.
Vì thế, lời nói của Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn cho Tông làm phản. Tông mời cơm ngỏ ý chỉ là một biểu hiện phó thác chính thức, lái mũi nhọn chĩa vào quận Huy.
Mục đích nổi loạn cùa kiêu binh là trả thù, rửa hận. Lời nói của Dự Vũ đã cho thấy quân lính “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận. Đề xuất kế sách của Bằng Vũ chứng tỏ quân lính rất khinh nhờn thế lực của phủ chúa: “Đánh một hồi trống làm hiệu, rồi kẻo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!”.
Đoạn văn đã miêu tả một cuộc nổi loạn của binh lính. Thế lực của họ thật mạnh. Xuất phát từ lòng căm phẫn, khinh bỉ, muốn rửa hận, trả thù, quân kiêu binh đã tụ tập, bàn định và thống nhất với nhau rất nhanh. Họ nổi lên chi phối các sự kiện lịch sử. Họ mớm lời và xúi giục Trịnh Tông, họ quyết định cách nổi loạn, bầu người chủ mưu, không cần chỉ dụ của ai hết. Trịnh Tông phó thác chỉ là kẻ ăn theo, Trần Hữu Cầu viết hịch chỉ là một việc hiếu sự. Bằng Vũ quyết định ngày khởi sự, không cần tâu với Thánh mẫu. Khi nghe tiếng trống, quân lính “nhảy nhót, hăng hái, cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ”, “họ hò reo quát tháo long trời lở đất”.
Đoạn giết quận Huy đã thế hiện sức mạnh của kiêu binh. Họ dọa quận Châu. Thoạt đầu, do thói quen phục tùng, họ sợ quận Huy, song chỉ được một lát, từ tư thế ngồi họ nhao nhao đứng dậy vây lấy voi chiến, nềm gạch ngói vào voi, dùng câu liêm kéo quản tượng xuống giết, rồi kéo quận Huy xuống đánh chết, mồ bụng lấy gan ăn sống, sau đó lấy đá ghè chết em quận Huy. Tất cả sự nổi loạn, tàn bạo đã thể hiện cụ thể, sống động, nó cho thấy sức mạnh của đám đông có thể làm nổi thuyền, có thể làm lật thuyền.
Kiêu binh đã lập Trịnh Tông lên, cảnh khiêng Tông trên chiếc mâm gỗ, đưa lên, đưa xuống, mọi người xúm lại đông như họp chợ. Hai tiếng “họp chợ” thật mỉa mai! Họ lại đặt sập gụ ngoài phủ đường để đưa Tông lên ngôi. Mấy chữ “ngoài phủ đường” cũng hài hước, chẳng có chút ụy nghiêm nào. Họ lại xin di phá tất cả dinh cơ quận Huy, làm náo động kinh thành liền trong mấy ngày.
Trái lại với sức mạnh bạo lực của kiêu binh, giai cấp thống trị tỏ ra hoàn toàn bất lực và thảm hại.
Sự bất lực thảm hại của phe quận Huy đã quá rõ. Không đề phòng, thiếu mưu lược, sờ đến cung thì cung đứt dây, sờ đến súng thì súng không nổ! Hai anh em Huy bị giết nhanh chóng! Chúa thì chạy trốn, đói bụng khóc nheo nhéo phải dọa bị bắt mới không khóc nữa. Những kẻ nắm quyền quốc gia trong phủ mà như thế, thật là hài hước hết mức!
Phe theo Tông cũng bất lực không kém. Quận Châu lúc đầu theo Huy đứng trong cửa định lên giọng đe quân lính. Kiêu binh mới đe một câu liền mở cửa ngay. Thế mà khi kiêu binh đã giết hết anh em quận Huy rồi, Châu còn phất cờ đuôi báo và khua chiêng thu quân, làm như mình đã là người chỉ huy quân đội của phe Trịnh Tông vậy!
Đoạn trích cho thấy Trịnh Tông, Thánh mẫu chỉ là đám bèo bọt trôi nổi trên bề mặt dòng thác lịch sử. Tông chỉ là con rối trong tay kiêu binh. Chỉ của Thánh mẫu chỉ là bản viết tức thời trước việc đã rồi. Khi kiêu binh thừa thế đốt phá, trả thù riêng, “Tông hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi” chứng tỏ Tông chẳng có chút uy quyền nào cả. Khi chúa vờ giết phứa “một người thường dân” (vì không dám đụng vào kiêu binh!) thì việc phá phách mới tạm ngừng, nhưng việc bắt người vẫn đang tiếp tục. Đoạn văn đã cho thấy làn sóng nổi loạn của quân lính và số phận bèo bọt của một vương triều, chứng tỏ sự thối nát cùng cực của một chế độ.
Những tư liệu được trình bày hết sức cụ thể, tỉ mỉ: về lai lịch tính cách các nhân vật, về địa chỉ của các vụ việc, về âm mưu của các phe phái, về quá trình hình thành, phát triển và kết thúc của sự kiện.v.v…Nghĩa là những tư liệu đủ để dựng lại bộ mặt, không khí của lịch sử một cách cụ thể, sinh động.
Bút pháp tả thực của lối chép sử biên niên không che dấu một nụ cười mỉa mai và xót xa trước tình cảnh đất nước bị rữa nát từ chính quyền trung ương. Cơn hấp hối vào giờ chót của một triều đại bao giờ cũng chẳng là một màn bi hài của lịch sử?
Đề 2. Phân tích một vấn đề xã hội mà em thấy có ý nghĩa đặt ra trong các tác phẩm truyện hoặc thơ đã học trong sách Ngữ văn 10, tập hai.
Khi đọc “Người ở bến sông Châu” bên cạnh những cảm xúc tiếc nuối, xúc động, em còn cảm nhận được sâu sắc một tình yêu nước ở dì Mây. Tình cảm là thứ thiêng liêng và cao đẹp nhất đối với cuộc sống con người. Mỗi người lại có cách yêu thương và những tình cảm tốt đẹp khác nhau. Một trong số tình cảm cao đẹp nhất mà chúng ta cần có đó chính là lòng yêu nước. Lòng yêu nước là sự biết ơn, trân trọng đối với những người đi trước đã cống hiến cho đất nước.
Yêu quý quê hương, có ý thức học tập, vươn lên để cống hiến cho nước nhà và sẵn sàng chiến đấu nếu có kẻ thù xâm lược. Người có lòng yêu nước là những người biết cố gắng học tập, làm việc rèn luyện bản thân thật tốt, sống có ước mơ, hoài bão, biết vươn lên để thực hiện những kế hoạch mình đề ra. Họ cũng là những người ham tìm hiểu, trân trọng và có ý thức lan tỏa những nét bản sắc văn hóa dân tộc, lịch sử, địa lí của nước nhà. Bên cạnh đó, lòng yêu nước còn là tinh thần đoàn kết, yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ, sẻ chia với mọi người xung quanh và với người có hoàn cảnh khó khăn; tuân thủ pháp luật, những nguyên tắc, quy định của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lòng yêu nước có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống con người. Trước hết, lòng yêu nước là nền tảng để một đất nước vững mạnh, khi có lòng yêu nước, ta sẽ biết cống hiến nhiều hơn cho đất nước. Người có lòng yêu nước là người có những nhận thức đúng đắn, sống theo chuẩn mực xã hội. Lòng yêu nước giúp con người gắn kết lại với nhau nhiều hơn, tinh thần đồng bào từ đó được nâng cao hơn.
Là một học sinh trước hết chúng ta cần học tập thật tốt, nghe lời ông bà cha mẹ, lễ phép với thầy cô. Có nhận thức đúng đắn về việc giữ gìn và bảo vệ tổ quốc. Luôn biết yêu thương và giúp đỡ những người xung quanh,… để thể hiện lòng yêu nước của mình. Mỗi chúng ta được sống một lần, hãy sống, cố gắng phát triển bản thân theo chiều hướng tích cực và trở thành một công dân có ích cho xã hội, cho đất nước.