
Anonymous
0
0
Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 1 - Ngắn nhất Cánh diều
- asked 4 months agoVotes
0Answers
0Views
Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 1
I. Đọc hiểu
a) Đọc hai khổ thơ sau và chọn phương án trả lời đúng cho mỗi câu hỏi (từ câu 1 đến câu 6):
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
(Trích Sang thu - Hữu Thỉnh)
Câu 1 (trang 123 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1)
A. Tự sự
B. Thuyết minh
C. Miêu tả
D. Nghị luận
Trả lời:
Đáp án đúng là: C. Miêu tả
Câu 2 (trang 123 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1)
A. 2/2/1
B. 2/3
C. 1/2/2
D. 3/2
Trả lời:
Đáp án đúng là: D. 3/2
Câu 3 (trang 123 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1)
A. Ổi - se
B. Ngõ – về
C. Vã – hạ
D. Dàng - hạ
Trả lời:
Đáp án đúng là: C. Vã – hạ
Câu 4 (trang 123 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1)
A. Sự biến chuyển của đất trời khi thu sang
B. Vẻ đẹp của cây cối khi mùa thu về
C. Nỗi buồn của con người trước cảnh thu
D. Sự vui mừng của tác giả khi mùa thu về
Trả lời:
Đáp án đúng là: A. Sự biến chuyển của đất trời khi thu sang
Câu 5 (trang 123 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1)
A. Láy âm đầu
B. Láy vần
C. Láy âm đầu và vần
D. Láy âm đầu và thanh
Trả lời:
Đáp án đúng là: A. Láy âm đầu
Câu 6 (trang 123 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1)
A. So sánh
B. Hoán dụ
C. Nhân hoá
D. Ẩn dụ
Trả lời:
Đáp án đúng là: C. Nhân hoá
b) Đọc đoạn trích sau và chọn phương án trả lời đúng cho mỗi câu hỏi (từ câu 7 đến câu 10)
Quy tắc vàng khi sử dụng thang máy
1. Đứng bên phải: Hãy nhớ rằng, khi chờ thang máy, bạn nên đứng cách xa cửa thang máy ở bên phải tối thiểu 1m để người bên trong có thể nhanh chóng ra ngoài. Chỉ bước vào trong thang máy khi không còn ai bước ra ngoài.
2. Nhấn nút giữ cửa thang máy nếu bạn đứng gần: Có rất nhiều tranh luận xoay quanh vấn đề có nên giữ cửa hay không. Nhưng theo chúng tôi thì có. Bởi trong thang máy, người ở bên trong không dễ dàng gì có thể thoát ra bên ngoài, hãy giữ cửa đến khi chắc chắn không còn ai muốn bước ra hoặc vào trong thang máy nữa.
3. Đừng cố gắng chui vào bên trong thang máy khi thang máy đã chật người.
4. Sẵn sàng nhấn nút cho một người khác: Nếu bạn đứng gần bảng điều khiển, hãy luôn sẵn sàng bấm nút hộ người khác khi họ có nhu cầu.
6. Nhanh chóng ra khỏi thang máy: Khi thang máy dừng tầng tại vị trí bạn muốn đến, hãy nhanh chóng bước ra khỏi thang máy một cách trật tự. Nếu bạn ở phía sau, đừng ngại ngần nói rằng “Xin lỗi, cho tôi nhờ một chút!” […]
(Theo atvin.com.vn)
Câu 7 (trang 124 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1)
A. Giới thiệu các loại thang máy khác nhau
B. Nêu lên các quy tắc cần chú ý khi sử dụng thang máy
C. Giới thiệu những ưu điểm và hạn chế của việc đi thang máy
D. Cảnh báo những nguy hiểm và bất lợi khi đi thang máy
Trả lời:
Đáp án đúng là: B. Nêu lên các quy tắc cần chú ý khi sử dụng thang máy
Câu 8 (trang 124 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1)
A. Nêu lên các biểu hiện đa dạng, phong phú về các loại thang máy
B. Nêu lên các lí do vì sao nên đi thang máy nơi công cộng
C. Nêu lên các quy tắc cần chú ý khi đi thang máy nơi công cộng
D. Nêu lên tác dụng và vai trò của thang máy trong các toà nhà công cộng
Trả lời:
Đáp án đúng là: C. Nêu lên các quy tắc cần chú ý khi đi thang máy nơi công cộng
Câu 9 (trang 124 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1)
A. Đọc kĩ tất cả các tiêu để mở đầu được in đậm của mỗi mục
B. Đọc kĩ nhan đề của văn bản: Quy tắc vàng khi sử dụng thang máy
Trả lời:
Đáp án đúng là: A. Đọc kĩ tất cả các tiêu để mở đầu được in đậm của mỗi mục
Câu 10 (trang 124 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1)
A. Yêu cầu các tòa nhà chung cư hiện đại cần có thang máy
B. Yêu cầu về không gian và thời gian khi sử dụng thang máy
C. Cần chú ý các quy tắc khi sử dụng thang máy nơi công cộng
D. Cần chú ý quy định về phòng, chống cháy nổ khi sử dụng thang máy
Trả lời:
Đáp án đúng là: C. Cần chú ý các quy tắc khi sử dụng thang máy nơi công cộng
II. Viết
Đề bài (trang 124 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1)
Đề 1: Phân tích đặc điểm một nhân vật trong tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7, tập một mà em có ấn tượng và yêu thích.
Đề 2: Nêu suy nghĩ và cảm xúc của em sau khi đọc hai khổ thơ trích từ bài thơ Sang thu (Hữu Thỉnh) nêu trên.
Trả lời:
Đề 1:
Chiến tranh luôn mang lại cho con người những nỗi bất hạnh và mất mát đau thương khôn cùng, trong đó có những nỗi đau dù không phạm vào da thịt nhưng nó lại khiến con người ta day dứt, trăn trở đến vô cùng, ấy là nỗi đau chia cắt dân tộc, nỗi đau chứng kiến đất nước bị giày xéo, bị buộc từ bỏ vốn văn hóa của dân tộc, để tiếp thu ngôn ngữ của kẻ thù, chịu sự khuất nhục đau đớn. Tất cả những nỗi đau ấy đều được thể hiện rất rõ thông qua truyện ngắn Buổi học cuối cùng và nhân vật người thầy Ha-men.
Câu chuyện diễn ra dưới cảm nhận và cái nhìn của nhân vật Phrăng- một cậu bé ham chơi, không quan tâm lắm đến chuyện học hành và thường trì hoãn các buổi học, đặc biệt là buổi học tiếng Pháp của thầy Ha-men. Cậu thường tránh né sự trách phạt của người thầy bằng cách len lén vào lớp những lúc buổi học ồn ào đan xen giữa tiếng đánh vần và tiếng thước kẻ của thầy giáo. Hôm nay cũng như thường lệ, Phrăng vẫn chứng nào tật ấy, tiếp tục tới trường trong bộ dạng hộc tốc, vội vã, thế nên khi thấy bảng cáo thị trên bảng tin cậu cũng chẳng kịp để ý xem chuyện gì đang xảy ra trên quê hương mình, và cũng bỏ qua cả lời nói tưởng như là chế nhạo từ bác phó rèn Oát-stơ. Chỉ khi bước đến lớp, thông qua ô cửa sổ mở rộng, nhìn thấy không khí lớp học im lặng như một buổi sáng chủ nhật, và thầy Ha-men đang đi lại với cây thước kẹp dưới nách làm cậu bỗng có linh cảm không tốt, dường như có một chuyện gì đó hệ trọng lắm đang đợi chờ phía trước. Thực tế trong lúc này Phrăng sợ hãi sẽ bị thầy trách phạt nặng vì lỗi đến muộn của mình, thế nhưng thật bất ngờ, người thầy vốn nổi tiếng nghiêm khắc khi nhìn thấy Phrăng bên ngoài thì lại từ tốn, dịu dàng bảo cậu bé vào lớp "Phrăng vào chỗ nhanh lên con, lớp sắp bắt đầu học mà lại vắng mặt con".
Và trong buổi học cuối cùng này, thầy Ha-men không dành nhiều thì giờ để trách phạt học trò, hay dạy các em đánh vần từng tiếng mẹ đẻ nữa. Trước sự ngập ngừng ấp úng của cậu học trò Phrăng khi cậu không thể đọc trôi chảy bài học bằng tiếng Pháp, thứ tiếng mà rồi giờ đây cậu sẽ không còn được học nữa, thầy Ha-men vẫn rất nhẹ nhàng, ôn tồn nói với Phrăng cũng là những lời nói sâu kín trong lòng mà thầy muốn nói với tất cả mọi người. Thầy Ha-men đã chỉ ra sự thích trì hoãn của đa số đám học sinh, người ta cứ tưởng rằng mình còn khối thì giờ để học, ngày mai, ngày kia, ngày kia nữa, nhưng đâu ai biết được rằng tai họa đã giáng xuống xứ sở này chỉ trong một đêm.
Mảnh đất quê hương thân thuộc bỗng trở thành thuộc địa của kẻ thù, chúng ta những người dân bản xứ buộc phải từ bỏ tiếng bản địa để học thứ tiếng của chúng, để sẵn sàng trở thành nô lệ cho những kẻ xâm lược. Đau đớn làm sao, giá như người ta có thể học và ghi tạc trong lòng thứ tiếng mẹ đẻ rồi truyền cho con cháu thì ít nhất dù mất chủ quyền lãnh thổ, người ta vẫn còn được tự tôn, được văn hóa dân tộc. Thế nhưng đáng buồn rằng, đến tiếng mẹ đẻ mà những cô cậu học trò như Phrăng cũng không thể đọc trôi chảy thì chỉ ít lâu nữa thôi như lời thầy Ha-men nói những nỗi nhục nhã sẽ ập tới, kẻ xâm lược có quyền chỉ thẳng mặt những người tự nhận là dân Pháp mà nói rằng: "Thế nào! Các người tự nhận là dân Pháp mà các người chẳng biết đọc, biết viết tiếng của các người" và điều đó dường như đang trở thành sự thật.
Từng lời nói ấy của thầy Ha-men dẫu rất nhẹ nhàng thế nhưng đã giáng từng nhát thật mạnh vào trái tim của từng người, những con người vẫn tìm lý do để trì hoãn việc học hành tử tế. Thế nhưng thầy Ha-men cũng là một người có suy nghĩ thấu đáo, thầy hiểu và cũng hiểu được rằng việc học hành không tử tế, không phải hoàn toàn là lỗi của những đứa trẻ, mà còn có phần lỗi ở các bậc phụ huynh khi không ý thức được tầm quan trọng của giáo dục, và thầy cũng nhận cả lỗi về mình, vì có đôi khi thầy cũng chưa hoàn toàn làm tốt bổn phận dạy dỗ của một người giáo viên. Người thầy đạo đức, có cái nhìn thấu hiểu và sáng suốt ấy vậy mà sắp phải rời khỏi nơi mình đã từng gắn bó bốn mươi năm cuộc đời, không còn được cống hiến cho mảnh đất này nữa. Điều ấy không khỏi làm người ta cảm thấy chạnh lòng, đau xót trước bi kịch của những con người và mảnh đất xứ An-dát.
Dáng vẻ tội nghiệp, luyến tiếc của người thầy còn bộc lộ thông qua việc thầy đứng trên bục giảng nhìn đăm đăm từng thứ đồ vật trong lớp học những thứ vốn đã gắn bó với thầy suốt mấy mươi năm nay. Dường như tầm mắt người thầy muốn mang đi hết tất cả hình bóng của ngôi trường nhỏ bé thân thương. Đau lòng, buồn bã trước nghịch cảnh nhưng thầy Ha-men vẫn cố gắng hoàn thành thật tốt buổi dạy cuối cùng như là một lời chào từ biệt. Tiếng chuông báo điểm giờ tan trường reo lên, như đánh động vào tâm can của người thầy. Thầy muốn nói, muốn phát biểu gì đó trước mặt toàn thể những người có mặt ở đây trước giờ chia tay, thế nhưng không thể vì quá xúc động. Cuối cùng những lời muốn nói ấy, những tâm tư trong lòng người thầy chỉ gói gọn lại bằng mấy chữ "NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!", tuy ngắn ngủi nhưng chứa đựng cả tấm lòng của người thầy, tấm lòng yêu nước sâu sắc, không bao giờ chịu khuất phục trước sự xâm lược của kẻ thù, đó cũng là bài học cuối cùng mà thầy Ha-men đáng kính muốn truyền lại cho các học sinh thân yêu của mình trước khi phải rời đi.
Nhân vật thầy Ha-men trong tác phẩm Buổi học cuối cùng là một nhân vật gây cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc, không chỉ bởi vì tình yêu tiếng ngôn ngữ mẹ đẻ, tấm lòng yêu nước, lòng căm ghét quân thù, không bao giờ chịu khuất phục mà còn đặc biệt bởi cái cách mà thầy truyền đạt lại những bài học quý giá vào buổi học cuối cùng. Không ồn ào, không vòng vo, sáo rỗng mà chỉ đơn giản là chỉ ra những khiếm khuyết của mọi người một cách nhẹ nhàng, từ tốn, từ đó đưa ra những bài học sâu sắc về ngôn ngữ văn hóa dân tộc. Thêm vào đó vẻ đẹp của người thầy còn là cái cách mà thầy chăm chút, tỉ mẩn chuẩn bị cho lần lên lớp cuối cùng một cách chỉn chu, trang trọng và đáng nhớ nhất. Tất cả đều thể hiện thật rõ ràng cái cốt cách sáng ngời của một người thầy cả đời cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, truyền bá văn hóa dân tộc không ngừng nghỉ, kể cả khi rơi vào nghịch cảnh đau xót.
Đề 2
Hai khổ thơ đầu bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã tái hiện thật sinh động sự biến chuyển của đất trời khi thu sang. Ở khổ thơ đầu, tín hiệu của mùa thu được nhận ra qua những sự vật trong không gian gần gũi của làng quê, được cảm nhận bằng nhiều giác quan: hương ổi, gió se, sương chùng chình qua ngõ. Những dấu hiệu của mùa thu còn mong manh, mơ hồ, nhẹ nhàng, chỉ có thể cảm nhận được bằng một tâm hồn tinh tế chứ không phải là sự nhạy cảm của những giác quan. Sang khổ thơ thứ hai, biểu hiện của sự giao mùa được mở ra với những hình ảnh ở khoảng xa rộng hơn, bao quát cả bầu trời và mặt đất: sông dềnh dàng, chim vội vã, mây vắt nửa mình sang thu. Đến đây thì mùa thu đã hiện ra rõ rệt trong không gian rộng lớn, tác động đến hoạt động của mỗi hiện tượng, sự vật thiên nhiên. Cảm nhận về mùa thu của tác giả không nghiêng về sự tàn phai, héo úa, gợi nỗi buồn hiu hắt như trong phần lớn những bài thơ xưa về mùa thu. Sự sống của thiên nhiên mùa thu không rực rỡ, náo động như ở mùa hè, mà được lắng lại, hướng vào bên trong nhưng không hề tĩnh lặng mà vẫn vận động không ngừng, theo quy luật của tự nhiên.