
Anonymous
0
0
Soạn bài Thuyết trình một vấn đề văn học trung đại Việt Nam (trang 25) Chuyên đề Ngữ văn 11 Cánh diều
- asked 4 months agoVotes
0Answers
0Views
Soạn bài Thuyết trình một vấn đề văn học trung đại Việt Nam (trang 25)
1. Thế nào là thuyết trình một vấn đề văn học trung đại Việt Nam?
Thuyết trình một vấn đề văn học trung đại Việt Nam là trình bày một cách hệ thống và rõ ràng kết quả nghiên cứu về một vấn đề của văn học Việt Nam thời kì từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX bằng ngôn ngữ nói và các phương tiện phi ngôn ngữ.
Quy trình để có một bài thuyết trình là từ nghiên cứu đến viết báo cáo nghiên cứu và từ báo cáo bằng văn bản viết chuyển thành thuyết trình bằng văn bản nói. Như vậy, nội dung thuyết trình một vấn đề văn học trung đại Việt Nam là dựa trên cơ sở nội dung nghiên cứu và báo cáo nghiên cứu về vấn đề đó.
2. Cách thức thuyết trình một vấn đề văn học trung đại Việt Nam
2.1. Chuẩn bị
- Chuẩn bị nội dung và hình thức thuyết trình:
+ Nội dung thuyết trình là những nội dung đã được viết trong báo cáo nghiên cứu.
+ Tùy theo mục đích, yêu cầu, đối tượng, thời lượng của buổi thuyết trình để lựa chọn nội dung thuyết trình: trình bày toàn bộ một vấn đề về văn học trung đại Việt Nam hay chỉ trình bày phần nội dung và kết quả nghiên cứu, trình bày tất cả các nội dung hay chỉ lựa chọn đi sâu vào những nội dung trọng tâm.
+ Hình thức trình bày là tóm lược hay diễn giải đầy đủ, chỉ dùng ngôn ngữ nói hay kết hợp với các phương tiện phi ngôn ngữ (trình chiếu PowerPoint, tranh, ảnh, video,…) trong thuyết trình.
Ví dụ, khi thuyết trình vấn đề Hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, có thể trình bày toàn bộ quá trình nghiên cứu với tất cả nội dung nghiên cứu (lí do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, các nội dung và kết quả nghiên cứu), hoặc chỉ lựa chọn một/ một số nội dung trong các nội dung để thuyết trình: Bi kịch của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, Vẻ đẹp của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương; Khát vọng của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương; Ý thức về cá nhân và ý thức về giới nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Cũng có thể lựa chọn trình bày kết hợp “cặp đôi” nội dung: bi kịch và vẻ đẹp, vẻ đẹp và khát vọng, khát vọng và tự ý thức.
- Chuẩn bị điều kiện và phương tiện thuyết trình;
+ Chuẩn bị phương tiện máy móc, thiết bị sử dụng khi thuyết trình: ánh sáng, âm thanh, máy tính, máy hình, kết nối mạng Internet,…
+ Chuẩn bị không gian thuyết trình (lớp học, phòng hội thảo, hội trường,…), vị trí của người thuyết trình, chỗ ngồi của người nghe,…
2.2. Trình bày
- Trước khi thuyết trình cần có lời chài hỏi để làm quen, tạo không khí tự nhiên, thân mật, gây ấn tượng ban đầu. Trong lời chào hỏi cần tự giới thiệu về bản thân (họ tên, tùy theo phạm vi rộng, hẹp ở đối tượng nghe để tự giới thiệu về đơn vị tổ, lớp, trưởng), hỏi thăm, chào mừng người đến dự, chúc buổi thuyết trình thành công,…
- Thông báo cho người nghe về nội dung công việc của buổi thuyết trình: thời gian thuyết trình, phần thuyết trình và phần thảo luận (sau mỗi nội dung trình bày) sẽ thảo luận hay thuyết trình xong toàn bộ vấn đề mới thảo luận, hình thức nêu thắc mắc, nêu câu hỏi cần giải đáp bằng lời nói hay bằng phiếu hỏi,…).
- Để người nghe dễ theo dõi, nắm bắt vấn đề, nên trình bày theo phương pháp diễn dịch: khát quát nội dung trình bày, sau đó thuyết trình những nội dung cụ thể.
Ví dụ, thuyết trình vấn đề Hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương.
Trước hết, cần khái quát nội dung vấn đề sẽ thuyết trình: phần thuyết trình bao gồm các nội dung về Bi kịch của người phụ nữ; Vẻ đẹp của người phụ nữ; Khát vọng của người phụ nữ; Ý thức về cá nhân và ý thức về giới nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Sau đó, lần lượt trình bày cụ thể từng nội dung.
Ở từng nội dung cũng nên thuyết trình theo phương pháp diễn dịch. Ví dụ, ở nội dung Bi kịch của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, trước hết, cần khái quát bằng một câu chủ đề: “Bi kịch của người phụ nữ có cả bi kịch về thể chất và bi kịch về tinh thần”. Sau đó, lần lượt trình bày bi kịch về thể chất và bi kịch về tinh thần của người phụ nữ.
- Để nối kết các nội dung trình bày, có thể dùng kiểu câu “không những A mà còn B”, “bên cạnh A còn B”,… Ví dụ: “Người phụ nữ không chỉ đau khổ về thể chất mà còn đau khổ về tinh thần”, “Bên cạnh vẻ đẹp về hình thức, người phụ nữ còn đẹp ở tâm hồn, phẩm chất”,…Cũng có thể dùng những cách nói tự nhiên trong thuyết trình: “Bây giờ, tôi sẽ nói về những khát vọng của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương”., “Tiếp theo là ý thức về giới nữ trong câu thơ của “Bà chúa thơ Nôm”,…
- Để kết luận nội dung thuyết trình, có thể dùng các câu mở đầu với “Tóm lại là…”, “Nhìn chung là…”, “Kết luận lại là…”,…
2.3. Rút kinh nghiệm
Chuyên đề 1 trong sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10 đã nêu lên cách thức rút kinh nghiệm đối với bài thuyết trình. Các em vận dụng phương pháp đã học để rút kinh nghiệm cho bài thuyết trình về một vấn đề văn học trung đại Việt Nam
3. Thực hành thuyết trình một vấn đề văn học trung đại Việt Nam
Bài tập thực hành (trang 27 chuyên đề Ngữ văn 11): Thuyết trình về “Ngôn ngữ giao tiếp trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du)”.
- Chuyển các nội dung của báo cáo Ngôn ngữ giao tiếp trong “Truyện Kiều” thành một bài thuyết trình.
- Khi thuyết trình, có thể trình bày toàn bộ vấn đề hoặc lựa chọn một/ một số nội dung cần đi sâu.
- Đối tượng thuyết trình: tùy theo hoàn cảnh cụ thể.
- Tiến hành theo các bước khi thuyết trình.
Trả lời:
HS dựa vào gợi ý để thuyết trình vấn đề trên.
Câu hỏi 1 (trang 27 chuyên đề Ngữ văn 11): Khi thuyết trình một vấn đề văn học trung đại Việt Nam, cần vận dụng những gì từ nghiên cứu và từ báo cáo một vấn đề văn học trung đại Việt Nam?
Trả lời:
Khi thuyết trình một vấn đề văn học trung đại Việt Nam, cần vận dụng kết quả từ các nghiên cứu và các báo cáo về một vấn đề văn học trung đại Việt Nam.
Câu hỏi 2 (trang 27 chuyên đề Ngữ văn 11): Nêu các bước tiến hành để thuyết trình một vấn đề văn học trung đại Việt Nam.
Trả lời:
1. Chuẩn bị
- Sắp xếp, hệ thống các tài liệu đã thu thập được theo nội dung nghiên cứu – những nội dung đã được xác lập từ giả thiết nghiên cứu về một vấn đề văn học trung đại
Việt Nam.
- Lựa chọn những dẫn chứng sẽ được sử dụng, phân tích trong báo cáo nghiên cứu. – Lập đề cương / dàn ý của báo cáo với những phần, chương, đề mục lớn. Thông thường, đề cương / dàn ý thường có những phần chính:
+ Phần Mở đầu: nêu lí do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu (nếu cần thiết).
+ Phần Nội dung: nêu nội dung nghiên cứu theo trình tự: phần – chương – mục. Với một báo cáo nghiên cứu có dung lượng vừa phải thì nội dung nghiên cứu chỉ cần giới hạn ở các đề mục lớn.
+Phần Kết luận: tóm lược lại kết quả nghiên cứu, nêu hướng nghiên cứu mở rộng, nâng cao tiếp theo (nếu có).
2.Viết báo cáo
Viết báo cáo trên cơ sở đề cương / dàn ý. Tuy nhiên, có thể nảy sinh những nội dung cần điều chỉnh, bổ sung so với đề cương thì sẽ điều chỉnh, bổ sung trong khi viết.
Câu hỏi 3 (trang 27 chuyên tập Ngữ văn 11): Lựa chọn một vấn đề văn học trung đại Việt Nam để thuyết trình trước lớp.
Trả lời:
HS đọc bản báo cáo đã làm ở câu hỏi 3 phần Thực hành viết báo cáo nghiên cứu một vấn đề văn học trung đại Việt Nam.
PHỤ LỤC
MỘT SỐ VĂN BẢN VIẾT VỀ VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Hệ thống nhân vật Truyện Kiều
Đồng thời với Truyện Kiều có tác phẩm văn xuôi chữ Hán Hoàng Lê nhất thống chí. Với tư cách là tác phẩm tự sự lịch sử, Hoàng Lê nhất thống chí đã đưa lên sân khấu hàng trăm nhân vật. Truyện Kiều, tác phẩm tiểu thuyết văn vần, dừng lại ở mức độ ba mươi nhân vật. So sánh rộng hơn, có thể thấy loại tiểu thuyết quy mô vĩ đại như Tam quốc chí (văn học Trung Quốc), Chiến tranh và hòa bình (văn học Nga),… có thể đạt tới quy mô số lượng nhân vật vô cùng lớn. Tiểu thuyết văn vần ít có khoảng đất rộng rãi ấy của thể loại tự sự văn xuôi.
Nhưng khi so sánh với truyện cổ tích và các truyện Nôm khác, Truyện Kiều thuộc loại tác phẩm có số lượng nhân vật cao nhất. Bảng thống kê so sánh dưới đây cho phép chúng ta đi đến kết luận đó:
Sự lựa chọn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân với một số lượng nhân vật khá lớn cho phép Nguyễn Du, trên cơ sở mối quan hệ phong phú giữa 30 nhân vật, có khả năng bao quát nhiều phương diện của cuộc sống xã hội. Tất nhiên, đơn thuần số lượng nhân vật không quyết định nội dung, phạm vi cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm. Giới hạn hoạt động, vị trí chức năng và sự phát triển tính cách của các nhân vật tổng hòa quyết định chủ đề tác phẩm, nội dung cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm. Nhưng số lượng nhân vật cũng là một yếu tố đóng góp vào nội dung tác phẩm nghệ thuật. Truyện cổ tích Thạch Sanh với số lượng khoảng trên 10 nhân vật và một giới hạn hoạt động rộng rãi (từ cây đa quận Cao Bình đến tận chốn đế kinh, từ cuộc chiến đầu chồng chằn tinh, chống đại bàng đến cuộc chiến đấu chống tên Lý Thông), đã mang nội dung phản ánh đấu tranh xã hội phong phú, sâu sắc hơn. Truyện Kiều, qua sự phản ánh vận mệnh nhân vật chính trong mối quan hệ với gần 30 nhân vật khác, đã trình bày được một vận mệnh đa dạng, phong phú, đụng chạm đến nhiều phương diện của cuộc sống dưới chế độ phong kiến.
Nhân vật trong Truyện Kiều là những con người xuất hiện từ nhiều chỗ đứng trong cuộc sống, thậm chí xuất hiện từ những bình diện rât đối lập của xã hội như:
Tiểu thư lầu hồng Anh hùng phản nghịch Nhà tu hành Thư sinh |
Kĩ nữ lầu xanh Tổng đốc trọng thần Bọn lưu manh |
Những loại nhân vật trên đây chủ yếu được sắp xếp theo hệ thống sau đây:
1. Hệ thống nhân vật chính diện bao gồm:
Từ hệ thống nhân vật trên đây, chúng ta có thể thấy rõ những nét đồng nhất và khác biệt giữa Truyện Kiều với truyện cổ tích, truyện Nôm.
Lộ kiến bất bình
Bạt đao tương trợ.
(Đặng Thanh Lê, “Truyện Kiều” và thể loại truyện Nôm,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979, trang 156 – 161)
Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ đầy sáng tạo. Các nghệ sĩ tài năng vừa tuân thủ thi pháp của thời đại mình, vừa vi phạm các quy tắc ấy và sáng tạo phong cách của riêng mình. Hồ Xuân Hương sáng tạo một phong cách thơ luật Đường mới, một thế giới đời thường thắm tươi, một thiên nhiên tràn đầy sức sống, một triết lí tự nhiên của cuộc đời trần thế, của trực giác, cảm giác, bản năng, của say mê, một cái đẹp góc cạnh và vui tươi của sự vận động hối hả, căng thẳng với những nhịp thơ nhảy múa, những âm thanh vang động, những điệu Van-xơ (Valse) chóng mặt. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ chạm trổ; hòn đá biết cười, hang động biết nói, nước lạch hát ca; thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu là ngày hội của bản năng, một phét-ti-van (festival) của cơ thể người phụ nữ, một đám rước dân gian náo nhiệt, ba-rốc (baroque), grô-te-xcơ (grotesque). Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương là thế giới vô vàn xcăng-đan (scandales), những cú huých, những thách thức.
Thơ Hồ Xuân Hương là thơ hành động, không phải là thơ tâm tình, thơ trạng thái như thơ Bà Huyện Thanh Quan hay khúc ngâm Chinh phụ chẳng hạn.
Thơ Hồ Xuân Hương là một thế giới âm thanh rộn rã, náo động: “tiếng trống canh dồn”, tiếng “mõ khua”, chuột “rúc rích”, ong “vo ve”, quạt “phì phạch”, sóng vỗ “long bong”, “gió giật”, “gió lách cách”, rồi “lõm bõm”, “phập phòm”, tiếng tiêu, chũm chọe và “Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha”. Chỉ những tiếng động ấy – dù tách rời khỏi văn cảnh nhịp điệu trong mọi mối quan hệ của nó với câu thơ, bài thơ, đã nói lên sự sống đời thường của thế giới Hồ Xuân Hương, cái thế giới xung động, rung động và hành động không im, không tĩnh. Những âm thanh ấy xâm nhập lẫn nhau, cãi nhau, chí choé, cao thấp, nặng nhẹ, vô cùng ồn ào, và những lời than vãn đêm khuya, và những đối thoại tinh quái, mời mọc, trách Chiêu Hổ say tỉnh, tỉnh say - “Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?”, trách người tình dối như Cuội - “Nhớ hái cho xin nắm lá đa” và chỉ toan tính những sự “gùn ghè”; và lời chửi mắng “phường lòi tói”, “ong non ngứa nọc”, “dê cỏn buồn sừng”. Và hãy nghe những tiếng động ban đêm. Những đêm khuya thanh vắng, vang động tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng thổn thức của người phụ nữ (Mõ thảm không khua mà cũng cốc, / Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om). Cốc và om (những tiếng dùng để cụ thể hoá các tình cảm “thảm” và “sầu”) là những âm thanh ngắn, cắt đứt đột ngột hai câu thơ nhịp dài. Sự liên kết đó (nhịp dài / nhịp ngắn cụt) mang ý nghĩa tâm trạng xót xa – cái bất chợt, cái lạ lùng. cái sửng sốt. Và tiếng gà gáy “văng vẳng”, sự điệp trùng này mới day dứt làm sao! Có ai như Hồ Xuân Hương nghe thấy lớp âm thanh thứ hai của đêm thanh vắng, từ xa đưa tới, từ mông lung, từ vô vọng và sâu thẳm của trái tim!
(Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại,
NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000, trang 70 – 76)