profile picture

Anonymous

upvote

0

downvote

0

star

Soạn bài Mục đích của việc học (trang 123) - Ngắn nhất Ngữ văn 9 Cánh diều

clock icon

- asked 4 months agoVotes

message

0Answers

eye

0Views

Soạn bài Mục đích của việc học

Nguyễn Cảnh Toàn

1. Chuẩn bị

Yêu cầu (trang 123 sgk Ngữ văn 9 Tập 1):

- Đọc trước văn bản Mục đích của việc học, tìm hiểu thêm thông tin về tác giả Nguyễn Cảnh Toàn (chú ý tới đặc điểm tấm gương tự học của ông).

- Đọc những thông tin liên quan sau đây về bốn trụ cột giáo dục của UNESCO để hiểu rõ hơn về văn bản này.

Trả lời:

- Thông tin về tác giả Nguyễn Cảnh Toàn:

+ GS Nguyễn Cảnh Toàn sinh ngày 28-9-1926 ở vùng quê có truyền thống hiếu học, thuộc xã Đông Sơn, huyện Đô Lương (tỉnh Nghệ An), là người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp khoa học và giáo dục.

+ Năm 1944, ông thi đỗ tú tài toàn phần và thi đỗ vào một trường đại học (ĐH) khoa học ở Hà Nội để học chứng chỉ toán học đại cương. Năm 1946, Chính phủ ta mở lại các trường ĐH, ông ra Hà Nội, thi lấy chứng chỉ Toán học đại cương và đỗ đầu, sau đó trở lại quê hương để tham gia công tác kháng chiến. Năm 1947, ông được bố trí dạy toán ở Trường Trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng. Năm 1951, ông được điều đi dạy ĐH (khoa học cơ bản và sư phạm cao cấp) tại khu học xá T.Ư ở Nam Ninh (Trung Quốc). Năm 1956, ông được bố trí dạy cho hai trường là ĐH Sư phạm (SP) Hà Nội và ĐH Tổng hợp. Ngày 29-1-1956, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 24-6-1958, ông bảo vệ thành công luận án TS toán học tại Trường ĐH Tổng hợp Lô-mô-nô-xốp và đây là một trong những luận án TS đầu tiên của người Việt Nam bảo vệ ở nước ngoài (Liên Xô cũ). Năm 1963, ông bảo vệ thành công luận án TSKH đầu tiên về khoa học cơ bản làm ở trong nước và bảo vệ ở Liên Xô. Năm 1966, tại hội nghị Toán học quốc tế họp ở Mát-xcơ-va, ông đã báo cáo phát minh mới nhất của mình gọi là "hình học siêu phi Ơ-clít". Tháng 9-1966 ông được đề bạt làm Hiệu phó Trường ĐHSP Hà Nội rồi chuyển sang làm Hiệu trưởng Trường ĐHSP Hà Nội II năm 1967. Năm 1975, ông được cử làm Hiệu trưởng Trường ĐHSP I mới (Trường ĐHSP Hà Nội ngày nay). Đầu năm 1976 ông được đề bạt làm Thứ trưởng Bộ Giáo dục (cũ), tham gia Đảng đoàn của Bộ.

+ Năm 1989 ở tuổi 63, GS Nguyễn Cảnh Toàn được Đảng và Nhà nước cho nghỉ quản lý để chuyên làm công tác khoa học và trở thành chuyên gia cao cấp của Bộ Giáo dục (cũ) và của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày nay. Năm 2001 ông nghỉ hưu nhưng vẫn làm việc với tư cách là một nhà khoa học như: làm chủ nhiệm đề tài, giảng chuyên đề, chấm luận án, viết báo, viết sách. Ngoài ra, ông là một trong những người sáng lập ra Hội Toán học Việt Nam và giữ cương vị Phó Chủ tịch Hội; sáng lập ra Tạp chí Toán học và tuổi trẻ, đồng thời là Tổng Biên tập từ ngày thành lập (năm 1964) đến tháng 8-2005. GS Nguyễn Cảnh Toàn còn tham gia giảng dạy và viết sách, như cuốn: Phương pháp luận duy vật biện chứng với việc học, dạy và nghiên cứu Toán học. Là tác giả, chủ biên, hiệu đính nhiều cuốn từ điển như Danh từ Toán học Nga - Việt, Danh từ Toán học Anh - Việt, Từ điển thuật ngữ Toán học. Ông cũng là thành viên Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa và là thành viên biên soạn.

+ Dành cả cuộc đời cho sự nghiệp khoa học và giáo dục, lao động bền bỉ, không mệt mỏi cho đến phút cuối cùng của cuộc đời, đã tạo nên chân dung GS Nguyễn Cảnh Toàn là một trong số những nhà toán học đầu tiên của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nhà quản lý giáo dục, nhà sư phạm lớn, nhà giáo mẫu mực đầy tâm huyết. Nói đến GS Nguyễn Cảnh Toàn là nói đến những đóng góp sáng tạo được đúc kết trong các công trình khoa học tiêu biểu trong các lĩnh vực toán học và khoa học giáo dục. Những kết quả nghiên cứu được phản ánh trong các công trình thuộc lĩnh vực toán học rất sâu sắc và đạt trình độ khoa học cao, đủ để hình thành một “nhánh nghiên cứu mới”. Các quan điểm của ông đều có quan hệ biện chứng xoay quanh trục “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo" mà ông đã nêu ra từ những năm 1960 giữa lúc “dạy học truyền thụ một chiều” còn phổ biến. “Nội lực là quyết định, ngoại lực là hỗ trợ” là triết lý được ông quán triệt đến mức trở thành nhạy cảm khoa học, thành niềm tin và bản lĩnh dám chịu trách nhiệm trong việc đưa ra những chủ trương táo bạo đã gặt hái không ít thành công. Nhiều công trình của GS Nguyễn Cảnh Toàn hiện nay đang là hành trang của những người nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực tổ chức tự học; phát triển tư duy sáng tạo, biện chứng; phát triển chương trình và tổ chức đào tạo giáo viên cũng như tái cấu trúc hệ thống các trường sư phạm với tiếp cận đào tạo giáo viên phải diễn ra trong bối cảnh tác nghiệp tại nhà trường phổ thông.

+ Phương pháp duy vật biện chứng được GS Nguyễn Cảnh Toàn vận dụng sáng tạo, độc đáo giữa dạy và học, giữa nghiên cứu khoa học và giáo dục. Phương pháp đó được quán triệt xuyên suốt trong các công trình nghiên cứu lĩnh vực toán học và khoa học giáo dục. Ba cuốn sách dạy cách sáng tạo toán học tiêu biểu cho tư tưởng đó trong số hàng trăm công trình khoa học của ông là “Phương pháp luận duy vật biện chứng với việc học, dạy và nghiên cứu Toán học" dành cho học sinh phổ thông, nghiên cứu sinh, giáo viên và những người nghiên cứu lý luận dạy học nói chung và lý luận dạy học toán học nói riêng; “Tập cho học sinh giỏi toán làm quen với nghiên cứu toán học”; “74 câu chuyện học toán thông minh, sáng tạo”. Có thể coi đây là ba cuốn sách về “sáng tạo học” trong lĩnh vực toán học. Mặt khác, với quan điểm giáo viên dù dạy ở cấp nào, bộ môn nào cũng phải thực hành hoạt động nghiên cứu khoa học, ông là người tiên phong đề ra chủ trương đưa hoạt động nghiên cứu khoa học vào trường phổ thông.

+ Với sự nhạy cảm khoa học đặc biệt, GS Nguyễn Cảnh Toàn đã phát hiện ra nhiều nội lực tiềm ẩn và các quy luật chi phối và đề xuất, chỉ đạo kiên quyết, kiên trì thực hiện nhiều chủ trương táo bạo, phản ánh tư duy chiến lược giáo dục phong phú, có nhiều điểm độc đáo mang màu sắc Việt Nam. Những cống hiến khoa học to lớn, độc đáo của GS Nguyễn Cảnh Toàn là kết quả trải nghiệm hoạt động tự học, sáng tạo, cả cuộc đời cống hiến cho khoa học với lao động miệt mài, bền bỉ cho đến tận những ngày trước khi đi về cõi vĩnh hằng.

+ Với những đóng góp to lớn cho khoa học và giáo dục nước nhà, GS Nguyễn Cảnh Toàn được Đảng, Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân và nhiều Huân, Huy chương cao quý; Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng…

2. Đọc hiểu

Nội dung chính:

Văn bản khẳng định học phải có mục đích, phải hướng tới những giá trị cốt lõi. Điều đó rất đúng trong xã hội ngày nay khi con người có xu thế toàn cầu hóa.

Soạn bài Mục đích của việc học (trang 123) - Ngắn nhất Ngữ văn 9 Cánh diều (ảnh 1)

* Trả lời câu hỏi giữa bài:

Câu 1 (trang 124 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Chú ý cách người viết dẫn dắt, giới thiệu vấn đề.

Trả lời:

Người viết dẫn dắt từ bối cảnh thế giới để nêu lên vấn đề nghị luận:

Với bối cảnh hiện nay theo xu thế toàn cầu hóa kinh tế thị trường, kinh tế tri thức và chuyển sang xã hội thông tin, xã hội học tập để nhấn mạnh việc học suốt đời là chìa khóa bước vào thế kỉ XXI. Đồng thời, tác giả cũng lấy dẫn chứng về khuyến cáo UNESCO để minh chứng cho lí lẽ của mình.

Câu 2 (trang 124 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Luận điểm nêu ở phần (2) được triển khai như thế nào?

Trả lời:

Luận điểm nêu ở phần (2) là “Học để hiểu” được triển khai với các lí lẽ như sau:

- Là đi sâu nắm bắt bản chất; khai thác, phân tích; tư duy.

- Là cách học khoa học, tự nghiên cứu, tạo cho mình năng lực tự học.

- Mối quan hệ giữa học và hiểu.

Câu 3 (trang 125 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Người viết trích dẫn quan điểm của các nhà tư tưởng lớn nhằm mục đích gì?

Trả lời:

Người viết trích dẫn quan điểm của Hồ Chí Minh, Kant, Piaget nhằm tăng tính thuyết phục cho lập luận của người viết. Khi trích dẫn ý kiến từ những người có uy tín và tầm ảnh hưởng, bài viết trở nên tin cậy hơn, giúp người đọc tin tưởng vào quan điểm mà tác giả đưa ra.

Câu 4 (trang 126 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Chú ý cách người viết kết nối các luận điểm.

Trả lời:

Người viết kết nối các luận điểm bằng cách đưa ra hai luận điểm phía trên để làm cơ sở, tiền đề cho luận điểm thứ ba.

Câu 5 (trang 126 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Tác giả đã mở rộng, bình luận ý kiến bằng cách nào?

Trả lời:

Tác giả đã mở rộng, bình luận ý kiến bằng cách sử dụng thao tác lập luận chứng minh và so sánh. Tác giả đã dùng các cụm từ liên kết như “chẳng những - mà còn”, “vừa… vừa” để tạo ra sự nhấn mạnh và thể hiện rõ các mặt khác nhau của vấn đề.

Câu 6 (trang 127 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Chú ý tới điểm chung trong cách triển khai các luận điểm của người viết

Trả lời:

Điểm chung trong cách triển khai các luận điểm của tác giả là luôn đưa ra lý lẽ rõ ràng để giải thích vấn đề, sau đó sử dụng những dẫn chứng, ví dụ cụ thể để minh họa và làm sáng tỏ thêm các luận điểm đó. Sau khi giải thích, tác giả thường rút ra ý nghĩa hoặc giá trị thực tiễn của việc học, từ đó nhấn mạnh tầm quan trọng của từng khía cạnh trong quá trình học tập.

* Trả lời câu hỏi cuối bài:

Câu 1 (trang 127 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Nêu những đặc điểm bối cảnh được nói tới ở phần (1). Vấn đề nghị luận có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh đó?

Trả lời:

- Bối cảnh được nói tới trong phần (1) là xu thế toàn cầu hóa kinh tế thị trường, kinh tế tri thức và chuyển sang xã hội thông tin, xã hội học tập.

- Vấn đề nghị luận là việc học suốt đời có ý nghĩa then chốt để bước vào thế kỉ XXI.

Câu 2 (trang 127 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Xác định hệ thống luận điểm của văn bản và nhận xét về cách tác giả triển khai mỗi luận điểm đó. Có thể trình bày bằng bảng hoặc sơ đồ, ví dụ:

Luận điểm

Lí lẽ, bằng chứng

Nhận xét

Trả lời:

Luận điểm

Lí lẽ, bằng chứng

Nhận xét

Học để hiểu

- là đi sâu nắm bắt bản chất; khai thác, phân tích; tư duy

- là cách học khoa học, tự nghiên cứu, tạo cho mình năng lực tự học

- mối quan hệ giữa học và hiểu

- Hệ thống luận điểm mạch lạc, rõ ràng và được liên kết chặt chẽ với nhau

- Các lí lẽ và dẫn chứng được trình bày theo kết cấu khá giống nhau ở mỗi luận điểm tạo sự logic, nhất quán

- Bằng chứng đưa ra thuyết phục, xác đáng, tạo được niềm tin cho người đọc

Học để làm

- Các quan điểm của Hồ Chí Minh, Kant, Piaget

- Cần có năng lực xử lí tình huống mới

- Mối quan hệ giữa học và làm

Học để hợp tác, cùng chung sống

- Cần hiểu bản thân và người khác

- Ý nghĩa

- Mối quan hệ giữa học và hợp tác

Học để

làm người

- Giải thích

- Khám phá ra bản thân, vượt qua chính mình

- Kết quả: tạo ra con người tự chủ, sáng tạo…

Câu 3 (trang 127 sgk Ngữ văn 9 Tập 1)

Trả lời:

- Tác giả đã sắp xếp các luận điểm theo trình tự logic từ cơ bản đến phức tạp, từ những điều nền tảng, thiết yếu đến những khía cạnh sâu xa và phức tạp hơn của việc học. Cách sắp xếp này giúp người đọc dễ theo dõi và hiểu rõ từng bước quan trọng của quá trình học tập.

- Không nên thay đổi thứ tự sắp xếp các luận điểm, vì việc học cần phải bắt đầu từ những kiến thức nền tảng, đơn giản trước khi tiến đến những kỹ năng, kiến thức phức tạp hơn. Nếu thay đổi thứ tự, người học sẽ khó nắm bắt và phát triển toàn diện các năng lực cần thiết để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống và thời đại.Câu 4 (trang 127 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Qua văn bản Mục đích của việc học, tác giả muốn khẳng định điều gì? Điều đó có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh hiện nay?

Trả lời:

- Tác giả muốn khẳng định rằng việc học không chỉ đơn thuần là thu nạp kiến thức, mà phải có mục đích rõ ràng và hướng tới những giá trị cốt lõi như rèn luyện nhân cách, phát triển kỹ năng để đóng góp cho xã hội.

- Trong bối cảnh hiện nay, điều này rất có ý nghĩa khi thế giới đang ngày càng toàn cầu hóa và con người phải đối mặt với nhiều thách thức mới. Học không chỉ để thích nghi với sự thay đổi của thời đại mà còn để xây dựng năng lực hợp tác, sáng tạo, góp phần phát triển xã hội và hội nhập quốc tế.

Câu 5 (trang 127 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Theo em, sức thuyết phục của văn bản này được tạo nên bởi những yếu tố nào? Hãy đưa ra lí lẽ và phân tích bằng chứng để làm rõ một trong những yếu tố đó.

Trả lời:

- Theo em, sức thuyết phục của văn bản này được tạo nên bởi những yếu tố sau:

+ Hệ thống luận điểm được sắp xếp chặt chẽ, mạch lạc, dẫn dắt người đọc từ những vấn đề cơ bản đến những vấn đề phức tạp hơn.

+ Các lý lẽ và dẫn chứng đưa ra rõ ràng, thuyết phục, góp phần khẳng định luận điểm chính.

+ Bài viết có tính thời sự, bắt kịp xu hướng phát triển toàn cầu, liên hệ được với những vấn đề lớn của xã hội hiện nay.

=> Minh chứng là trong phần "Học để làm", tác giả đã dẫn ra các phát biểu của những nhà tư tưởng lớn như Hồ Chí Minh, Kant, Piaget. Việc này không chỉ làm tăng tính thuyết phục và tin cậy của luận điểm, mà còn giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về mục đích và giá trị của việc học trong thời đại mới.

Câu 6 (trang 127 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Từ những vấn đề gợi ra trong văn bản, hãy liên hệ với thực tiễn để chỉ ra một số bất cập (hạn chế) về việc học của học sinh hiện nay. Để giải quyết những bất cập (hạn chế) đó, cần phải làm gì?

Trả lời:

- Một số bất cập về việc học của học sinh hiện nay:

+ Nhiều học sinh học tập theo lối thụ động, chỉ học để đối phó với các kỳ thi mà không chú trọng đến việc rèn luyện kỹ năng thực tiễn.

+ Thiếu sự định hướng rõ ràng về mục đích học tập, học sinh chủ yếu tập trung vào điểm số mà quên đi giá trị cốt lõi của việc học là phát triển toàn diện bản thân.

+ Tình trạng học thêm quá nhiều, dẫn đến căng thẳng và mệt mỏi, làm giảm hứng thú trong việc học.

+ Việc học chưa gắn liền với thực tiễn, khiến học sinh khó áp dụng kiến thức đã học vào cuộc sống và công việc sau này.

- Giải pháp:

+ Khuyến khích học sinh học tập chủ động, sáng tạo, kết hợp lý thuyết với thực hành, và phát triển kỹ năng tư duy phản biện.

+ Giúp học sinh hiểu rằng học không chỉ vì điểm số mà còn vì sự phát triển toàn diện về kiến thức, kỹ năng và phẩm chất.

+ Cân đối thời gian học và nghỉ ngơi, tạo điều kiện để học sinh có thời gian tự học và phát triển những kỹ năng mềm.

+ Tăng cường các hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm thực tế để học sinh có cơ hội áp dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, giúp việc học trở nên thiết thực hơn.

Write your answer here

Popular Tags

© 2025 Pitomath. All rights reserved.