
Anonymous
0
0
Sách bài tập Ngữ Văn 11 Bài 7: Tùy bút, tản văn, truyện kí - Cánh diều
- asked 4 months agoVotes
0Answers
0Views
Giải SBT Ngữ Văn 11 Bài 7: Tùy bút, tản văn, truyện kí - Cánh diều
I. Bài tập đọc hiểu
Thương nhớ mùa xuân (Trích Thương nhớ mười hai)
Câu 1 trang 18 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Dòng nào dưới đây nêu đúng đặc điểm thời tiết của mùa xuân miền Bắc và Hà Nội?
A. Trời có mưa riêu riêu, gió lành lạnh
B. Trời đã hết nồm, nhưng vẫn rét căm căm
C. Trời xanh biêng biếc, gió đông về
D. Trời đông tháng giá, cỏ mướt xanh
Trả lời:
Đáp án A
Câu 2 trang 18 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Tác giả yêu mùa xuân nhất là vào khoảng thời gian nào?
B. Đúng ngày rằm tháng Giêng
C. Sau ngày rằm tháng Giêng
D. Đã kết thúc tháng Giêng
Trả lời:
Đáp án C
Câu 3 trang 18 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Dòng nào dưới đây nêu đúng vẻ đẹp của trăng non tháng Giêng trong văn bản?
A. Ánh trăng trắng như sữa, trong như nước ôn tuyền
B. Trăng sáng lộng lẫy như trăng mùa thu
C. Trăng đẹp một cách héo úa như trăng tháng Một
D. Trăng sáng lung linh như ngọc
Trả lời:
Đáp án A
Câu 4 trang 18 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Câu văn nào sau đây thể hiện trực tiếp tình yêu của tác giả dành cho mùa xuân Hà Nội?
B. “Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến”.
C. “Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa, mà cái rét ngọt ngào chứ không còn tê buốt căm căm nữa”.
Trả lời:
Đáp án B
Trả lời:
Trong văn bản, một số chi tiết có sự đan xen giữa yếu tố tự sự và trữ tình như: chi tiết miêu tả thời tiết mùa xuân Hà Nội vào khoảng sau rằm tháng Giêng, chi tiết miêu tả khung cảnh đoàn tụ đầm ấm của gia đình….
Ngôn ngữ của văn bản cũng đan xen giữa yếu tố tự sự và trữ tình như: bên cạnh lời kể có nhiều tính từ, từ ngữ miêu tả giàu hình ảnh và chất thơ.
Câu 6 trang 19 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Câu hỏi 5, SGK) Chi tiết nào về thiên nhiên (hoặc phong tục, con người) Hà Nội trong văn bản để lại ấn tượng đặc biệt đối với em? Vì sao?
Trả lời:
Chi tiết về thiên nhiên (hoặc phong tục, con người) Hà Nội trong văn bản để lại ấn tượng đặc biệt đối với em là chi tiết miêu tả thiên nhiên Hà Nội vào tháng Giêng. Việt Nam có ba vùng miền và mỗi vùng miền lại có đặc điểm về khí hậu và thời tiết khác nhau trong đó, mùa xuân và khí hậu miền Bắc rất đặc biệt vì nó có đủ 4 màu trong một năm. Vũ Bằng đã miêu tả rất chân thực khung cảnh tháng giêng về với những cảm nhận về sự chuyển giao diệu kì của thời tiết và sự hòa quyện giữa cảnh sắc thiên nhiên với con người nơi đây. Càng đọc, ta càng thấy yêu hơn Hà Nội với những đặc sắc riêng biệt.
Câu 7 trang 19 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Câu hỏi 6, SGK) Em hiểu thêm được những gì về giá trị văn hoá dân tộc từ văn bản Thương nhớ mùa xuân?
Trả lời:
Câu 8 trang 19 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Bảo rằng tháng ấy còn rét, không đúng, mà bảo là hết rét rồi cũng không đúng nữa.
Trời trong như ngọc, đất sạch như lau. Ngủ dậy lúc còn tối trời, anh ngồi uống nước trà đợi sáng thì uống chưa xong ấm nước, anh bỗng thấy có những đám mây hồng từ phía đông kéo tới giữa một nền trời xanh ngăn ngắt một màu. Ở đằng sau nhà, chim hót ríu ran, đánh thức những người còn đang thiêm thiếp. Anh mở cửa nhìn ra ngoài thì lá cây sạch bong ra, lóng lánh như ở trong một phim ảnh màu tuyệt đẹp: sương móc ban đêm rửa hoa lá cỏ cây, rửa cả cát bụi trên các nẻo đường thành phố.
Giẫm đôi giày lên trên đất mịn màng, anh cảm thấy cái mát mẻ của đất, của sương vương trên cỏ thấm vào lòng anh y như thể anh đi chân không vậy. Chim vẫn hót ríu ran. Anh nhìn lên trời cười thì những đám mây hồng toả ra một thứ ánh sáng trắng như sữa, nhẹ như bông, tràn lan trong không khí và úp chụp lấy các lùm cây nội cỏ. Anh tự nhủ: “Hôm nay, chắc nắng to”. Anh sửa soạn một bộ quần áo mỏng để mặc cho nhẹ nhõm và dễ chịu.
Riêng cái tên mà người ta đặt cho cái rét muộn màng đó đã thơ mộng lắm rồi rét nàng Bân. Nhưng có ai đã từng rét cái rét ấy, sầu cái sầu ấy đôi lần, tắt đều nhận thức rằng cái rét ấy còn chứa đựng một cái gì đẹp như thế hay hơn thế: đàn bà, con gái trời đã cho xinh đẹp gặp cái rét nàng Bân tự nhiên đẹp trội hẳn lên, như thể có một chiếc đũa thần làm biến đổi cả máu huyết, màu da, con mắt, miệng cười, tiếng nói. Từ xa, ta cảm thấy người nào cũng thơm thơm như những nụ tầm xuân.
Cỏ cây mây nước thấy người ta, trong tháng ấy, tự nhiên đẹp rực rỡ lên, đẹp não nùng, hình như hờn giận và cố ganh đua để cho xanh bằng người, thắm bằng người.
Từ tháng Giêng, cây cối bắt đầu nảy lộc nhưng đến tháng Hai lá non mới bắt đầu ló ra và hoa cũng bắt đầu hé mở, nhuỵ thơm không còn ngậm ý, giấu tình như trước nữa. Đó là mùa “lá bàng tai trâu, sầu đâu() chân chó”: trên các cành bàng, lá non hé mở và cuốn lại, chưa bung ra hết, y như thể tai trâu, còn cây sầu đâu thì vào khoảng này cũng trổ lá non nhưng chúm lại với nhau thành một hình tròn trông giống hệt vệt chân con chó để lại trên mặt đất, sau một đêm mưa tuyết.
Đó là những cây bàng nguyên giống, chớ không lại căng như những cây bằng mà ta thấy ở đây, mọc cao vun vút và tua tủa lá lên trời. Bàng chính thống cao lên chừng hai sải tay thì lá xoè ra như cái tán, kiểu cây trứng cá, lá to xanh điểm những nốt vàng màu nâu đậm. Lá ấy dùng để nhuộm hàng thì hàng đen không chịu được. Nhưng cái tuổi lên chín, lên mười đâu có thèm biết nhuộm làm gì. Sự mê thích của đứa trẻ nổi tiếng phá phách là tôi hồi ấy, mỗi khi tới mùa bàng, là trèo lên cây đi tìm tổ chim bạc má vì giống chim này ưa làm tổ trong những cái lá bàng cuốn lại và lấy dãi làm chỉ “khâu” hai đầu nối lá lại với nhau.
Trong khi đi bắt tổ chim như thế, các cậu bé thỉnh thoảng lại “vớ” được một cái sâu kèn thì sướng như điên. Lấy que đẩy con sâu ở trong tổ nó ra bóp dập một đầu lại, phùng mang trợn mắt lên thổi toe một tiếng, anh cảm thấy mình là một tên tướng thổi kèn hiệu xuất quân. Anh chạy khắp nhà, thổi ầm cả lên.[..]
Bàng ngon nhất là bàng quế, hột đỏ như son, thơm có khi còn hơn cả đào: đào để gần mình mới thấy thơm chớ vớ được một trái bàng quế thì, nói thực, để cách xa mình cả một sải tay, đã ngửi thấy mùi thơm phưng phức!
Nếu không kiếm được bàng quế, cố mày mò, thám thính vớ được trái bàng đực ăn cũng mê li hết sức: bàng cái nhiều hơn và mọc từng chùm, chớ bàng đực thì có cái phong thái đặc biệt “anh hùng độc lập” đứng một mình một chỗ, không thèm kéo bè kéo đảng với ai. Bàng đực có trái to bằng nắm tay đứa trẻ.
Những người không sành thường nghĩ bàng ăn chát. Thực ra, vớ được một quả bàng đực, nhất là bàng quế, cắn một cái ngập răng, nhai thủng thỉnh, còn ngọt hơn cả cam hay táo. Nếu ăn hết một trái mà anh thấy còn thèm thì lấy hòn đá đập cái hột ra; anh sẽ có một cái nhân bùi như trám; và có nhiều, đem đồ xôi trước cúng cụ, sau ăn thì tuyệt.
Có người bảo cây đa, cây đề là cây tiêu biểu của nước ta. Riêng tôi thấy cây bàng là thứ cây đặc biệt nhất: cành lá đã xum xuê, đứng xa trông về lại đẹp; mặt khác, cả cái cây từ lá cho đến rễ, từ búp cho đến cành đều dùng được việc, không có một cái gì bỏ phí.
Còn cây sầu đâu? Cây sầu đâu cũng vậy. Lá, đưa ngâm ngoài ruộng xâm xấp nước cho ải rồi đem bón nhất định là hơn hẳn phân hoá học, còn thân cây cố chăm nom cho thẳng, dăm bảy năm hạ xuống làm cột nhà, bóng cứ lộng lên mà mối chỉ còn cách trông mà khóc vì không thể nào đục nổi! Thế nhưng tại sao người ta không gọi sầu đâu là xoan ta, lại kêu bằng một cái tên buồn như thế? Phải chăng là tại vì cây này trong héo ngoài tươi, tượng trưng cho những người đẹp u buồn, ngoài miệng thì cười mà thực ra hàng bữa vẫn chan cơm bằng nước mắt?
Hỡi ơi du khách đa xuân tử! Tôi đố anh nhìn thấy những cái cây mảnh mai yếu điệu mang từng chùm hoa diễm kiều như thế mà lại không dừng chân đứng lại Tự nhiên, anh thấy tim anh nhoi nhói.
Tháng Ba mà không có những ao rau cần xanh ngăn ngắt, tươi hơn hớn không phải là tháng Ba Bắc Việt.
Gió xuân mơn cánh hoa đào,
Mưa xuân phấp phới trên ao rau cần.
Ấy, đất nước này chỉ đẹp giản dị thế thôi, hiền lành thế thôi, ai muốn nói thế nào thì nói chớ dân nước chúng tôi vẫn nhận là đẹp nhất thế giới, đáng yêu nhất trần hoàn.
Ở Bắc Việt, tháng Ba có Tết Hàn thực kiêng dùng lứa, chỉ ăn ròng đồ lạnh, ngoài ra lại còn biết bao nhiêu hội hè, mà hội hè nào cũng ý vị, mà cũng nên thơ. mà cũng hấp dẫn người ta như thế, thì bảo làm sao, xa nơi phần tử lâu ngày, người mắc bệnh tương tư kinh niên lại không thương không nhớ.
(Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai, NXB Văn học,
Hội Nghiên cứu giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh, 1989)
a) Xác định đề tài và đặt nhan đề cho văn bản trên.
b) Chỉ ra đặc điểm của thể loại tuỳ bút được thể hiện ở văn bản trên.
Trả lời:
a) - Đề tài: Tháng ba ở miền Bắc
- Nhan đề: Thương nhớ tháng ba
b) Đặc điểm của thể loại tuỳ bút được thể hiện ở văn bản:
- Ngôn ngữ của văn bản rất giàu chất thơ và hình ảnh.
Vào chùa gặp lại (Minh Chuyên)
Câu 1 trang 24 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Nhân vật chính trong văn bản Vào chùa gặp lại là ai?
B. Vũ Thị Bích
C. Nguyễn Hồng Quân
D. Sư Trần Diệu Tánh
Trả lời:
Đáp án A
Câu 2 trang 24 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Câu văn nào dưới đây là biểu hiện của yếu tố phi hư cấu trong văn bản Vào chùa gặp lại?
B. Qua gần chục ngôi chùa, tôi dừng lại một ngày để đến chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương.
C. Đàm Thân ngồi trầm lặng, ngước nhìn lên, vẻ mặt xa xăm, mắt chớp chớp hồi nhớ một thời đã qua.
D. Nhưng từ lâu Thân đã ấp ủ nguyện ước phó thác cuộc đời nơi Tam bảo.
Trả lời:
Đáp án B
Câu 3 trang 24 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Đâu là lí do chính khiến Thân từ chối lời đề nghị của Quân về chuyện xây dựng tổ ấm gia đình?
B. Vì Quân bị nhiễm chất độc da cam nên không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Thân
C. Vì đã lớn tuổi nên Thân không còn mong muốn xây dựng tổ ấm gia đình
D. Vì Thân đã trở thành một nhà sư nên muốn xa lánh hoàn toàn với chốn phàm trần
Trả lời:
Đáp án A
Câu 4 trang 25 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Câu văn nào dưới đây biểu hiện mức cao nhất thái độ trận trọng, yêu mến của tác giả dành cho nhân vật?
B. Dù bận mải tối ngày, Thân vẫn tranh thủ học chữ Nho, đọc kinh, tu luyện nhân tâm.
C. Từ đó, ngày ngày Thân làm việc cần mẫn từ sáng sớm tinh mơ đến tận sao khuya.
D. Nét đẹp duyên dáng của người con gái làng biển lại thức dậy trên đôi má trắng tròn và mái tóc dài óng mượt của Thân.
Trả lời:
Đáp án A
Câu 5 trang 25 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Câu hỏi 4, SGK) Chỉ ra một số chi tiết cho thấy sự kết hợp giữa yếu tố hư cấu và phi hư cấu trong văn bản Vào chùa gặp lại. Phân tích tác dụng của sự kết hợp đó đối với việc thể hiện nội dung, ý nghĩa của văn bản?
Trả lời:
- Phần mở đầu văn bản kể về tình huống nhân vật “tôi” gặp lại người nữ y sĩ tại chùa Đông Am, xã Quang Bình, huyện Kiến Xương vừa có yếu tố hư cấu (tạo tình huống gặp gỡ bất ngờ) vừa có yếu tố xác thực với địa chỉ cụ thể của ngôi chùa và nhà sư Đàm Thân.
Câu 6 trang 25 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Câu hỏi 5, SGK) Từ câu chuyện của các nhân vật trong văn bản, em suy nghĩ gì về những hi sinh cao cả của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc?
Trả lời:
Câu 7 trang 25 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Câu hỏi 6, SGK) Theo em, câu chuyện muốn truyền đạt tới người đọc thông điệp nhân sinh gì? Điều đó còn có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống hôm nay?
Trả lời:
- Thông điệp: Để có được cuộc sống hòa bình hôm nay, bao thế hệ người lính trước đây đã phải hi sinh xương máu.
- Điều đó khẳng định ý nghĩa của cuộc sống hôm nay, khiến thế hệ trẻ được sinh ra và lớn lên trong hòa bình biết trân trọng và đóng góp những việc làm tích cực cho xã hội.
Câu 8 trang 25 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Văn bản dưới đây được trích từ tác phẩm.
Tại xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh có một người đàn bà đã sáu con tên là Nguyễn Thị Út. Dáng người nhỏ gọn, chị có khuôn mặt tròn và đôi mắt to, sáng. Cô bác lớn tuổi quen gọi chị là con Út Trầu, vì chị hay ăn trầu. Lại có người đặt danh chị là “Bà Hồng”) vì chị đánh giặc rất giỏi. Xóm giềng theo tục địa phương, ghép tên chị với tên chồng, cứ kêu là Út Tịch. Mới đây, bà con lại bàn tán một chuyện xảy ra về chị.
Một đêm tối trời tháng giáp Tết vừa qua, dân làng đáy ở ngoài cồn Bản Chát bỗng nghe tiếng đàn bà kêu cứu. Vào mùa nước rong, sông chảy xiết, sóng to, có lượn lớn bằng con trâu, dân nghèo đi làm ăn bị chìm ghe, đồ đạc trôi láng sống Người ta chạy ghe máy ra giữa dòng, vớt lên được một người đàn bà chỉ có đã mắt là tỉnh táo. Trên vai chị, một đứa bé tuổi còn bú, cứng đờ, thở thoi thóp. Cùng với chị còn ba đứa nhỏ gái run rẩy, da tím ngắt.
Đó là chị Út Trầu. Hỏi ra mới biết hôm đó nghe tin giặc bố ngoài sông, chi mướn xuồng chở ít dưa sang Cầu Lộ bán, tiện dịp thăm dò tình hình giặc ngoài đó ra sao. Giặc chặn đường ban ngày, chị phải đi ban đêm. Ra tới giữa sông, sóng lưỡi búa đã bốc nước làm chìm xuồng chị. Sông Hậu Giang rộng mênh mông bé ngang bốn ki lô mét, chèo thẳng tay cũng mất ba tiếng. Mấy mẹ con ngụp lặn giữa trời nước tối đen. Chị Út vai vác đứa con mới đẻ, lội đứng, miệng hò hét điều khiển ba đứa con gái, đứa nhỏ nhất mới tám tuổi, bám theo mép xuồng còn chìm lờ đờ, thả trôi. Xuồng muốn chìm luôn xuống đáy sông, chị cố nâng lên. Mọi việc đều phải tỉnh táo, chính xác. Nếu không khéo, đứa nhỏ trên vai sẽ chết. Quá tay một chút, cái xuồng cũng có thể chìm luôn. Cứ như vậy, hai tiếng đồng hồ, sông lớn, sóng cả đã thua chị.
Lên bờ, thoa bụng con, chị thử sức con bằng cách thọc lét cho nó cười. Mấy mẹ trong xóm nói:
Đàn bà như tao thì sình lên rồi. Nó vậy mà mẹ con còn y.
Mấy mẹ Khơ-me nói:
– Con đó chuyện gì nó cũng làm như đụng giặc vậy.
đánh tới tấp vào các ấp chiến lược, và cô bác Tam Ngãi vẫn thường nói: "Mẹ con nó dạy nhau cùng một khuôn, con Út kia đi đánh giặc lại có con Út nọ ở nhà
Tháng 5 năm 1964, Út được Mặt trận tỉnh tuyên dương công trạng. Cuộc lễ đông hơn ba ngàn người. Chị được tặng một cây cạc-bin và mười lăm mét vải Giữa ánh điện sáng rực, trước máy phóng thanh, Út nói:
– Tôi đi đánh giặc được Mặt trận thương, cô bác thương nên cứ đánh hoài. Bây giờ trên cho làm xã đội phó, tôi cũng đánh hoài.
Những mô đất đồng bào đắp trên đường đi Cầu Kè cao như trái núi con. Tiểu đội nữ du kích gom hàng xuống gáo dừa về gắn vào mô, có gài kèm lựu đạn. Giặc đón phá, bị nổ tung, chúng đổ đạn có đến hàng tấn vào đám gáo dừa mà xe vẫn không dám chạy.
Đó là sáng kiến của đồng bào Kế Sách, Út đã học được.
Ban ngày, đôi khi chị cũng ghé về. Nhìn thấy mẹ bước vô cửa, đàn con reo lên. Nhưng mẹ chúng chỉ về lấy thêm đạn, xắn tay chùi mũi cho đứa nhỏ một cái, rồi đi ngay. Cả năm đứa không đứa nào đòi theo. Súng vẫn nổ dồn dập. Súng của ta ở cái thế đi tìm giặc mà đánh. Ở nhà, mỗi lần nghe súng, mấy đứa trẻ lại bị bộ: má đánh chỗ này, ba đánh chỗ kia. Ngay trước nhà là hướng ấp chiến lược 3. Dịch sang một chút là ấp 2, ấp 1. Ngang hông là Cầu Kè. Sau hè là bót Bà Mi. Mấy đứa trẻ nghe hướng súng nhận ra nơi cha mẹ. Thị trấn nổ là ba đánh. Bà Mi nổ là má và các cô. Hằng ngày, con Bé vừa đi làm vừa điều khiển đàn em núp máy bay. Máy bay bay như bọ hung trên nóc nhà. Trực thăng Mỹ kêu loa ong óng đòi Giải phóng quân ra đầu hàng! – "Giải phóng quân mắc đi đánh bót, chỉ có "Giải phóng quân con" ở nhà đây thôi! Con Giải phóng quân không biết đầu hàng! Chừng nào giết hết không còn thẳng Mỹ và tay sai nào nữa thì Giải phóng quân sẽ về cùng
nhân dân trồng rẫy, nuôi con". Con Bé vẫn nghe mẹ nói vậy.
Thường quá nửa đêm, Út mới về tới nhà. Con Bé bật dậy ra mở cửa. Trong mùng, bốn đứa nhỏ là nhỏ nhố: "Má về, má về", rồi thức dậy đều hết. Út không kịp cởi bao đạn, ôm lấy con. Thằng Hiển nhỏ nhất, níu lấy cây cạc-bin của mẹ, đòi ngoéo cò. Con Thanh, em kế con Bé, cởi bao đạn cho mẹ. Con Thơ, con Anh, em kế con Thanh, ôm lấy cổ mẹ. Út phân phát bánh cho con. Những tấm bánh Út đã nhịn sau khi đánh trận về, mấy mẹ cho du kích mỗi người một cái ăn lót dạ. Trong những tiếng ríu rít của đàn con, Út nghe câu được câu mất. Chị vui như vừa đi xa về. Một niềm vui kì lạ, tưởng như việc sống chết vừa xảy ra hồi nãy đây là không có. Và nếu có, nó cũng chỉ còn như những tia chớp yếu ớt, rất xa, trong những đêm mưa mát dịu, không hề làm xao động tới cảnh đầm ấm của mẹ con trong nhà. Thực ra, lúc nằm phục kích, bao ý nghĩ Út đều quay cả vào giặc. Súng nổ, chị quên hết, cả lỗ công sự cũng bỏ. Lúc rút lui trên đường về, chị mới giật mình nhớ đến con. Nếu mình hi sinh, nó sẽ ở với ai đây? Nó ở với nhân dân! Bây giờ nó cũng đã ở với nhân dân rồi. Đời mình cực thì đời sau nó sướng. Giặc còn thì giặc cũng giết cả đời con mình. Nghĩ đến cảnh đàn con phải đi ở đợ như mình ngày xưa, Út không chịu nổi – "Còn cái lại quần cũng đánh!" – Út dạy con như vậy.
- Quây quần bên con, Út tập cho con bắn súng. Tay chân chị cũng múa may cùng với con. Thằng Hiển, hai tuổi rưỡi, ôm súng của mẹ, ngọng líu hát:
Anh eng ta như ạn con ùi
Nó có đúng mình có dao gam
Nó éo cô thì mình ở ô đâm. (*)
(* Anh em ta như bạn con ruồi . Nó có súng mình có dao găm / Nó ngoéo cò thì mình nhảy vô đâm - Bài hát do trẻ con Tam Ngãi tự đặt ra)
Ca sáu mẹ con cùng cười.
Út lại chạy sang. Người mệt, chân muốn bẻ lái ra sau. Giặc khúm núm dò từng bước.
Bộ đội vẫn kiên gan chờ nó vào tầm súng. Út lại chạy về nhà, dặn con:
– Đừng có ra, nghen con! Nó tới rồi! Đừng sợ nó, nghen!
Tiếng đàn con ó ré từ dưới hầm trả lời mẹ. Cái hầm là một lớp áo đất, trên để bộ vạt. Út nhìn vào. Con Bé đang bồng thằng nhỏ. Bốn đứa kia nhìn mẹ cười. Út nói:
– Chổng khu lên con!
Cả bốn đứa đều chống tay xuống đất, chổng mông lên trời như bốn tại nấm. Đó là động tác ngồi hầm, chống bom làm tức ngực. Út đã dạy con từ trước.
Chưa lần nào mặt trận của Út lại ở gần con như vậy. Chị chạy sang, một loạt đạn giặc véo trên đầu.
Hai bữa sau, giặc lại càn, nhưng không dám vào. Út lận trái lựu đạn lên đầu tóc, choàng khăn đi tìm giặc. Tới khúc quẹo, gần đụng đầu mà Út không thấy chúng. Chị câm, người Khơ-me, một người đàn bà nghèo, không chồng, khoát tay la ơ ơ cho Út chạy. Giặc xả súng bắn theo. Chúng đến lấy báng súng đánh người đàn bà tật nguyền ấy gần chết.
Tam Ngãi hoàn toàn giải phóng, sau gần hai mươi năm bị kìm kẹp.
(Nguyễn Thi, Người mẹ cầm súng, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1970)
a) Tác giả thể hiện thái độ, tình cảm như thế nào đối với nhân vật Nguyễn Thị Út?
b) Chỉ ra đặc điểm của thể loại truyện kí được thể hiện qua văn bản trên.
c) Nhân vật Nguyễn Thị Út trong văn bản trên và nhân vật Lương Thị Thân trong văn bản Vào chùa gặp lại giống nhau ở những điểm nào?
Trả lời:
a) Tác giả đã thể hiện thái độ cảm phục, ngưỡng mộ và yêu mến đối với nhân vâth Nguyễn Thị Út (Út Tịch).
b) Đặc điểm của thể loại truyện kí được thể hiện qua văn bản trên:
- Phần mở đầu văn bản vừa giới thiệu về nhân vật Út Tịch vừa kể tình huống chị cùng bốn đứa con nhỏ vật lộn với sóng lớn của sông Hậu Giang khi bị chìm xuống. Sau hai tiếng đồng hồ vật lộn, sông lớn, sóng cả đã thua chị. Điều này làm hiện lên chân dung sử thi về một người me bản lĩnh, gan dạ trước tình huống nguy hiểm trong đời thường. Đồng thời, người đọc hình dung, trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, chắc hẳn đây sẽ là một người mẹ anh hùng. Phần này vừa có yếu tố xác thực (họ tên và địa chỉ cụ thể của nhân vật Nguyễn Thị Út), vừa có yếu tố hư cấu (tình huống chị Út và bốn đứa con nhỏ bị chìm xuống ở sông Hậu Giang suốt hai tiếng đồng hồ vật lộn với sông cả…).
c) Nhân vật Nguyễn Thị Út trong văn bản trên và nhân vật Lương Thị Thân trong văn bản Vào chùa gặp lại có những điểm tương đồng, đó là đều là những người phụ nữ anh hùng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mang đậm nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam như đảm đang, nhân hậu trong đời thường, dũng cảm trong chiến đấu; được dân làng và mọi người xung quanh yêu mến, trân trọng.
Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Câu 1 trang 31 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Dòng nào dưới đây nêu sát nhất đề tài của văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông?
B. Đất và người xứ Huế
C. Phong tục xứ Huế
D. Thời tiết xứ Huế
Trả lời:
Đáp án A
Câu 2 trang 31 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Thông tin nào sau đây cho biết điểm độc đáo của sông Hương so với các dòng sông đẹp khác?
A. Hiển nhiên sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó
B. Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya
C. Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc
D. Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tác giả thường nghe nói đến, hình như duy chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố
Trả lời:
Đáp án D
Câu 3 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Ở thượng nguồn, vẻ đẹp của sông Hương được so sánh với hình ảnh nào sau đây?
A. Điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế
B. Cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại
C. Một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya
D. Một người con gái dịu dàng của đất nước
Trả lời:
Đáp án B
Câu 4 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Sông Hương trong sách địa dư của Nguyễn Trãi mang tên là:
B. Sông Hương
C. Linh Giang
D. Sông Thơm
Trả lời:
Đáp án C
Câu 5 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Theo tác giả, vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương thể hiện rõ nhất ở đoạn nào?
A. Đoạn giữa lòng đại ngàn Trường Sơn
B. Đoạn xuôi về Huế với những rừng thông và lăng tẩm
C. Đoạn vùng ngoại ô Kim Long với những biền bãi xanh biếc
D. Đoạn qua vùng ngoại ô Vĩ Dạ với màu xanh biếc của tre trúc
Trả lời:
Đáp án B
Câu 6 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Nhận định nào sau đây không đúng khi nói về văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông?
A. Thể hiện vốn hiểu biết sâu rộng của nhà văn về nhiều lĩnh vực
B. Văn phong hướng nội, tinh tế và rất mực tài hoa
C. Thể hiện tình yêu, sự gắn bó sâu nặng của tác giả với xứ Huế
D. Giọng điệu sắc sảo pha lẫn sự hài hước
Trả lời:
Đáp án D
Câu 7 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Ngôn ngữ của văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông? có điểm gì nổi bật? Hãy dẫn ra một số câu văn để minh chứng cho điều đó.
Trả lời:
- Đặc trưng nổi bật của tác phẩm thể loại tuỳ bút là ngôn ngữ giàu chất thơ và hình ảnh.
- Một số câu văn để minh chứng cho điều đó:
+ “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại.”.
+ “Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.”.
Câu 8 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Câu hỏi 3, SGK) Qua việc khắc hoạ hình tượng sông Hương, nhà văn thể hiện tình cảm, thái độ gì đối với quê hương, xứ sở?
Trả lời:
Tình cảm, thái độ của nhà văn đối với quê hương, xứ sở được thể hiện qua các câu văn:
- “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất.”.
- “Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố.”
“Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.
- “Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.”.
Câu 9 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Câu hỏi 4, SGK) Hãy chỉ ra và làm sáng tỏ đặc điểm tuỳ bút thể hiện qua văn bản này (cái “tôi” độc đáo, sự kết hợp tự sự và trữ tình, ngôn ngữ giàu chất thơ).
Trả lời:
- Sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình khiến hình tượng sông Hương hiện lên không chỉ là dòng nước chảy mà là một sinh thể có tình cảm, tâm hồn phong phú. Đồng thời, người đọc cũng cảm nhận rất rõ tình cảm yêu mến, tự hào mà tác giả dành cho dòng sông của quê hương.
- Ngôn ngữ giàu chất thơ khiến văn bản văn xuôi đẹp như một bài thơ bởi nhịp điệu và hình ảnh. Ví dụ, những câu văn sau:
“Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.
Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại.
Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sống Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.”.
Câu 10 trang 32 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Câu hỏi 6, SGK) Văn bản đem lại cho em suy nghĩ gì trong việc nhìn nhận vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên quê hương mình? Hãy viết về một cảnh đẹp của quê hương em bằng một đoạn văn (khoảng 10 – 12 dòng).
Trả lời:
Trên mảnh đất chữ S thân thương của chúng ta có biết bao phong cảnh tươi đẹp. Em thích nhất là Hồ Gươm xanh xanh giữa lòng Hà Nội. Màu xanh ấy là xanh ngọc óng ánh của lá, xanh thẳm của mây trời và đặc biệt là xanh lục sóng sánh của làn nước. Mỗi khi những chị gió nhẹ lướt qua, làn nước lại lăn tăn gợn sóng. Xung quanh, những hàng cây xà cừ, sấu, si,… cổ thụ như những vệ sĩ canh giữ lòng hồ. Đêm đêm, Hồ Gươm lấp lánh ánh đèn với Tháp Bút, với đền Ngọc Sơn, với cầu Thê Húc. Ai ai cũng nô nức kéo đến đây để chiêm ngưỡng vẻ đẹp riêng biệt của hồ. Em luôn mong những tối cuối tuần để được ngắm cảnh, ngắm dòng người và chơi nhiều trò chơi vui thú.
II. Bài tập tiếng Việt
Bài tập tiếng Việt trang 33, 34
Câu 1 trang 33 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Bài tập 1, SGK) Từ già trong các ngữ cảnh sau mang nghĩa gì? Hãy giải thích nghĩa của từ già theo những cách khác nhau mà em biết.
b) Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói loà màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
c) Càng thấy anh đứng yên, họ càng được ngắm, và càng cho là anh muốn pha trò như thế, nên càng cười già! (Nguyễn Công Hoan)
Trả lời:
a) Từ “già” trong “nghệ nhân già” mang nghĩa gốc, chỉ người lớn tuổi.
b) Từ “già” trong “rừng già” mang nghĩa chuyển, chỉ rừng lâu năm.
c) Từ “già” trong “cười già” mang nghĩa chuyển, chỉ sự vang lớn của tiếng cười.
Câu 2 trang 33 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Bài tập 2, SGK) Hãy giải thích nghĩa của từ say (hoặc yếu tố say trong từ phức) trong các câu sau và cho biết trong mỗi trường hợp, từ được sử dụng với nghĩa gốc hay nghĩa chuyển.
a) Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu, mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng nghe như lòng mình say sưa một cái gì đó – có lẽ là sự sống! (Vũ Bằng)
b) Ngoài đường, người ta cũng không còn bị choá mắt hay say lòng vì những áo nhung trơn mướt, những giày kinh xoè cánh phượng bay hay những dải khăn “san” khéo biết lựa màu bay đùa trước gió như thể tơ trời vậy. (Vũ Bằng)
c) Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
d) Đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say. Và hắn say thị lắm. (Nam Cao)
Trả lời:
a) Từ “say” trong “lòng mình say sưa” mang nghĩa chuyển, chỉ tính chất tâm lí.
b) Từ “say” trong “say lòng” mang nghĩa chuyển, chỉ tính chất tâm lí.
c) Từ “say” trong “say đắm” mang nghĩa chuyển, chỉ tính chất tâm lí.
d) Từ “say” trong “người say” mang nghĩa chuyển, chỉ tính chất tâm lí.
Câu 3 trang 33 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Giải thích nghĩa của các từ in đậm xuất hiện trong các ngữ cảnh sau và chỉ ra từ nào được dùng với nghĩa chuyển, từ nào được dùng với nghĩa gốc.
a) - Anh này to gan thật!
- Tôi không thích ăn gan lợn.
b) - Bụng anh ấy béo quá!
- Ông ấy là một người đàn ông tốt bụng.
c) - Mỗi lần đi qua sông, tôi rất thích ngồi ở mũi thuyền.
- Cô ấy có mũi cao và dáng đẹp.
d) - Cà phê không nên uống ngọt quá.
- Lời nói ngọt bao giờ cũng lọt tai.
Trả lời:
a) Nghĩa gốc “gan lợn”; nghĩa chuyển “to gan”.
b) Nghĩa gốc “bụng béo”; nghĩa chuyển “tốt bụng”.
c) Nghĩa gốc mũi cao”; nghĩa chuyển “mũi thuyền”.
d) Nghĩa gốc “cà phê ngọt”; nghĩa chuyển “lời nói ngọt”.
Câu 4 trang 34 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Hãy chọn đáp án đúng trong các trường hợp giải nghĩa từ dưới đây:
a) Từ thị trong “nhất cận thị” có nghĩa là:
B. thành phố
C. chợ
b) Từ lân trong “nhị cận lân” có nghĩa là:
A. hàng xóm
B. gần
C. xung quanh
c) Từ dục trong “dục tốc bất đạt” có nghĩa là:
A. muốn
B. thích
C. ham
d) Từ xuất gia trong câu “Những ngày đầu, bố mẹ Thân ngăn cấm không cho xuất gia” (Minh Chuyên) có nghĩa là:
A. Ra đời
B Từ bỏ gia đình vào chùa
C. Ra ở riêng
e) Từ phu trong câu “Ông bắt Thân về “xuất giá tòng phu”” (Minh Chuyên) có
nghĩa là:
A. vợ
B. chồng
C. cha
g) Từ phong trong câu “Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong” (Vũ Bằng) có nghĩa là:
A. gió
B. đóng kín
C. thói quen
Trả lời:
a. - C
b. - A
c. - A
d. - B
e. - B
g. - B
Trả lời:
- Một số tài liệu tham khảo phục vụ cho báo cáo nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao:
+ Bàn về nghệ thuật truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao" - Tác giả: Hồ Đắc Hùng - Tài liệu này tập trung vào phân tích về nghệ thuật trong truyện ngắn "Chí Phèo"
+ Văn học và xã hội trong truyện "Chí Phèo" của Nam Cao"- Tác giả: Vũ Hạnh
+ "Chí Phèo - Cuộc đời và nhân cách" - Tác giả: Hoàng Mai Hương
+ Nghệ thuật đặt vấn đề trong truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao" - Tác giả: Lê Hồng Thái.
+ Phân tích nhân vật Chí Phèo trong bối cảnh xã hội đầu thế kỷ XX" - Tác giả: Trần Minh Quang
III. Bài tập viết
Bài tập viết và nói - nghe trang 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41
Câu 1 trang 35 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Đọc báo cáo nghiên cứu sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở hộp bên phải
MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ SỬ DỤNG ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH VÀ CÁC RỐI LOẠN GIẤC NGỦ, RỐI LOẠN T M LÍ Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VÀ SINH VIÊN
Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Phúc Thành Nhân,
Nguyễn Thị Thuý Hằng
Trường Đại học Y – Dược Huế
Tóm tắt:
Việc gia tăng sử dụng điện thoại thông minh trong giới trẻ đang tạo nên một số hiệu ứng tiêu cực và là vấn đề y tế công cộng đáng quan tâm ở nhiều nước. Việc lạm dụng và phụ thuộc điện thoại thông minh có thể dẫn đến các rối loạn về thể chất và tâm lí ở người sử dụng. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn chưa nhận được nhiều sự quan tâm do thiếu các bằng chứng khoa học. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm (1) Mô tả thực trạng sử dụng điện thoại ở đối tượng học sinh trung học phổ thông và sinh viên đại học tại thành phố Huế; (2) Xác định mối liên quan giữa mức độ sử dụng điện thoại thông minh và các triệu chứng về rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí ở đối tượng nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 1 150 học sinh trung học phổ thông và sinh viên tại thành phố Huế. Phỏng vấn qua bộ câu hỏi sử dụng thang đo SAS – SV đánh giá nghiện sử dụng điện thoại, thang K10 đánh giá rối loạn tâm lí và thang PSQI đánh giá chất lượng giấc ngủ. Kết quả: Tỉ lệ sử dụng điện thoại thông minh của học sinh và sinh viên là 78,0%. Tỉ lệ nghiện sử dụng điện thoại di động thông minh ở học sinh là 49,1% và tỉ lệ này ở sinh viên là 43,7%. Có 57,3% học sinh có tình trạng chất lượng giấc ngủ không tốt và tỉ lệ này ở nhóm sinh viên là 51,6%. Có mối liên quan đến tình trạng nghiện sử dụng điện thoại thông minh và các rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí (p < 0,05). Kết luận: Tỉ lệ nghiện sử dụng điện thoại thông minh ở học sinh và sinh viên là đáng báo động và có liên quan đến các rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí. Cần có những giải pháp can thiệp giúp học sinh, sinh viên nhận thức được và quản lí tốt việc sử dụng điện thoại thông minh.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Điện thoại thông minh hiện nay đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của người dân, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi. Vấn đề lạm dụng và nghiện sử dụng điện thoại thông minh ngày càng trở nên phổ biến và đang là một vấn đề xã hội quan trọng ở nhiều nước trên thế giới. Một cuộc khảo sát trên 1519 học sinh ở Thụy Sĩ cho thấy có 16,9% học sinh nghiện sử dụng điện thoại thông minh (5). Các nghiên cứu đã cho thấy mức độ phổ biến và việc sử dụng điện thoại thông minh quá mức có thể dẫn đến các rối loạn hành vi, ảnh hưởng xấu đến tình trạng sức khoẻ cũng như đời sống xã hội và chất lượng học tập ở nhóm thanh thiếu niên (12), [16). Điện thoại thông minh với nhiều tính năng đã gây ra vấn đề nghiện tương tự như nhiều khía cạnh đối với nghiện Internet [9], [10] nhưng cũng có một số khác biệt như khả năng di chuyển và các tính năng truyền thông dễ dàng và trực tiếp truy cập Internet thời gian thực [10]. Nghiện điện thoại thông minh nói chung khó xác định vì liên quan không chỉ đến thể chất mà còn với các yếu tố xã hội và tâm lí (9), Việt Nam là một trong những quốc gia có tỉ lệ người sử dụng điện thoại thông minh cao trên thế giới [14). Mặc dù ngày càng có nhiều người trẻ tuổi sử dụng điện thoại thông minh nhưng vẫn còn khá ít các nghiên cứu về ảnh hưởng của việc này đến các rối loạn hành vi, tâm lí và giấc ngủ ở nhóm đối tượng này. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Mối liên quan giữa mức độ sử dụng điện thoại thông minh và các rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí ở học sinh trung học phổ thông và sinh viên” với các mục tiêu: (1) Mô tả thực trạng sử dụng điện thoại ở đối tượng học sinh trung học phổ thông và sinh viên đại học tại thành phố Huế; (2) Xác định mối liên quan giữa mức độ sử dụng điện thoại thông minh và các triệu chứng về rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí ở đối tượng nghiên cứu.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian nghiên cứu
2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.4. Thu thập và phân tích số liệu
2.5. Xử lí số liệu
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét: Nữ giới chiếm ưu thế trong nhóm đối tượng nghiên cứu. Trong khi nhóm học sinh phổ thông chủ yếu sống cùng gia đình / họ hàng thì nhóm sinh viên chủ yếu ở nhà trọ / kí túc xá. Phần lớn đều có sử dụng điện thoại thông minh. Hơn 90% đối tượng nghiên cứu là sinh viên đã sử dụng điện thoại thông minh từ 3 năm trở lên.
Nhận xét: Ở nhóm học sinh trung học phổ thông, thời gian nghĩ đến việc kiểm tra điện thoại mỗi 30 – 59 phút chiếm tỉ lệ cao nhất, tiếp đến là nhóm nghĩ đến việc này mỗi 1 – 3 giờ. Trong khi đó, đa số các sinh viên nghĩ đến việc kiểm tra điện thoại mỗi 1 – 3 giờ. Tương tự, khoảng cách giữa các lần kiểm tra điện thoại thông minh ở nhóm học sinh phổ thông có xu hướng ngắn hơn so với nhóm sinh viên.
Bảng 3. Mức độ phụ thuộc điện thoại thông minh
Nhận xét: Đánh giá nghiện sử dụng điện thoại thông minh qua thang đo SAS – SV cho thấy tỉ lệ nghiện sử dụng điện thoại thông minh ở nhóm học sinh trung học phổ thông cao hơn so với tỉ lệ này ở nhóm sinh viên.
[..]
Bảng 4. Liên quan giữa nghiện sử dụng điện thoại thông minh và rối loạn giấc ngủ
Nhận xét: – Tỉ lệ rối loạn giấc ngủ ở nhóm người nghiện sử dụng điện thoại thông minh cao hơn so với nhóm còn lại. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
- Có sự khác biệt về mức độ rối loạn tâm lí giữa các nhóm đối tượng nghiên cứu. Những người nghiện sử dụng điện thoại thông minh có tỉ lệ rối loạn tâm lí ở mức vừa và nghiêm trọng cao hơn so với nhóm không nghiện sử dụng điện thoại thông minh
(p<0,05).
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu về tình trạng sử dụng điện thoại thông minh được thực hiện ban đầu với đối tượng là sinh viên vào năm 2015. Sau khi nhận thấy tỉ lệ sử dụng và phụ thuộc điện thoại thông minh ngày càng cao và độ tuổi bắt đầu sử dụng ngày càng trẻ hoá, chúng tôi đã tiếp tục tiến hành nghiên cứu tương tự trên nhóm đối tượng là học sinh trung học phổ thông vào cuối năm 2016 và đầu năm 2017.
Qua bảng 1, có thể thấy rằng tỉ lệ sử dụng điện thoại thông minh là rất cao, 89,6% ở học sinh phổ thông và 70,5% ở nhóm sinh viên. Tỉ lệ sử dụng điện thoại thông minh tổng chung của cả 2 nhóm là 78%. Sở hữu 1 điện thoại chiếm đa số trong cả 2 nhóm đối tượng nghiên cứu. Trong khi nhóm học sinh phổ thông đa phần mới sử dụng điện thoại thông minh chưa đến 3 năm (77,3%), thì sử dụng từ 3 năm trở lên lại chiếm ưu thế ở nhóm đối tượng là sinh viên với 91,1%. Kết quả nghiên cứu của tác giả Bucholz A và cộng sự (2016) tại Hoa Kỳ thì 93,9% sinh viên y khoa có điện thoại thông minh [2].
Thời gian nghĩ đến việc kiểm tra điện thoại thông minh ở nhóm đối tượng học sinh phổ thông chủ yếu là mỗi 30 phút đến 1 giờ và từ 1 – 3 giờ. Thời gian kiểm tra điện thoại thông minh ở nhóm đối tượng này đa phần là cứ mỗi 10 phút đến dưới 30 phút. Đối với nhóm đối tượng nghiên cứu là sinh viên, thời gian nghĩ đến việc kiểm tra điện thoại và thời gian kiểm tra điện thoại thường dài hơn so với nhóm đối tượng là học sinh phổ thông. Hơn hai phần ba sinh viên nghĩ đến việc kiểm tra điện thoại mỗi 1 – 3 giờ và hơn, gần một nửa sinh viên kiểm tra điện thoại cứ mỗi 10 phút – 1 giờ. Điều này cho thấy có thể học sinh trung học phổ thông phụ thuộc vào điện thoại di động thông minh hơn sinh
viên giống như nghiên cứu của Severin Haug và cộng sự vào năm 2015 ở Thụy Sĩ khi cho kết quả tỉ lệ nghiện điện thoại của nhóm học sinh từ 15 - 16 tuổi cao hơn những học sinh từ 19 tuổi trở lên [5].
Tỉ lệ học sinh và sinh viên nghiện sử dụng điện thoại thông minh khá cao, chiếm tỉ lệ lần lượt là 49,1% và 43,7%. Tỉ lệ này cao hơn trong các nghiên cứu tương tự nghiên cứu ở Thuỵ Sĩ năm 2015 là 16,9% [5], nghiên cứu ở Hàn Quốc năm 2012 là 11,8% [6] và năm 2013 là 24,8% [10]. Kết quả của chúng tôi cho thấy tỉ lệ nghiện sử dụng điện thoại di động thông minh ở nhóm học sinh trung học phổ thông cao hơn so với nhóm sinh viên. Tỉ lệ cao như thế này cũng dễ hiểu vì điện thoại thông minh có nhiều chức năng hơn nghe gọi thông thường nên làm cho người dùng tiêu tốn nhiều thời gian vào nó. Đồng thời, đối tượng vị thành niên thường có xu hướng nghiện điện thoại nhiều hơn những người trên 19 tuổi [5]. Đây là một thực trạng đáng lo ngại bởi sự phụ thuộc vào điện thoại thông minh quá mức có thể gây ra nhiều vấn đề sức khoẻ tâm thần cũng như thực thể [6].
Phân tích trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ nữ giới nghiện điện thoại thông minh cao hơn so với nam giới. Kết quả này là phù hợp với nghiên cứu của Demirci K., Akgonul M. và Akpinar A., năm 2015, tại Thổ Nhĩ Kì và nghiên cứu của Hwang KH, Yoo YS và Cho OH, năm 2012, tại Hàn Quốc [4], [6].
Chất lượng giấc ngủ không tốt ở giới trẻ dường như đã trở thành thực trạng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Khảo sát cắt ngang tại hai trường đại học tại Hoa Kỳ của tác giả Afandi O., kết quả cho thấy có tới 67,2% sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt [1], một nghiên cứu khác cũng tại Hoa Kỳ cũng cho con số tương tự với 58,7% sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt [7]. Một nghiên cứu ở sinh viên Ethiopia cũng cho thấy hơn một nửa sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt (55,8%) [11]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy tình trạng chất lượng giấc ngủ của học sinh trung học phổ thông và sinh viên là không tốt (57,3% ở nhóm học sinh và 51,6% ở nhóm sinh viên) chiếm tỉ lệ khá cao.
Sử dụng điện thoại thông minh quá mức như đã trình bày ở trên có khả năng gây ra nhiều vấn đề sức khoẻ cho cơ thể như là ảnh hưởng thị lực và đau ở cổ tay hay cổ gáy [9]. Trầm trọng hơn, lạm dụng điện thoại thông minh có thể gây ra một vài vấn đề tâm thần hoặc rối loạn hành vi. Phân tích mối liên quan giữa mức độ sử dụng điện thoại thông minh với tình trạng rối loạn giấc ngủ trong các đối tượng nghiên cứu cho kết quả tỉ lệ rối loạn giấc ngủ ở nhóm nghiện sử dụng điện thoại thông minh cao hơn so với nhóm còn lại (p<0,05). Do đó, có thể chỉ ra rằng có thể việc sử dụng điện thoại thông minh là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ của học sinh. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Long X và cộng sự và nghiên cứu của Demirci K và cộng sự (4), [13].
Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã chỉ ra tỉ lệ có một rối loạn tâm lí (lo âu và trầm cảm) cao hơn ở nhóm lạm dụng điện thoại thông minh hơn là nhóm không lạm dụng điện thoại thông minh. Nghiện sử dụng điện thoại thông minh càng cao thì rối loạn tâm lí càng nặng (p < 0,05). Kết quả này của chúng tôi cũng phù hợp với một số nghiên cứu khác trên thế giới [1], [6], [15]. Điều này cho thấy việc sử dụng điện thoại thông minh có thể là một trong những nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đến các rối loạn tâm lí và sức khoẻ tâm thần của các đối tượng học sinh, sinh viên từ 15 – 25 tuổi.
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ nghiện sử dụng điện thoại thông minh ở học sinh trung học phổ thông và sinh viên là đáng báo động và có liên quan đến các rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí. Cần có những giải pháp can thiệp giúp học sinh, sinh viên nhận thức được và quản lí tốt việc sử dụng điện thoại thông minh. Cần có thêm những nghiên cứu sâu hơn trong lĩnh vực này để đưa ra các bằng chứng và giải pháp nhằm hạn chế các tác động có hại của việc sử dụng điện thoại thông minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO
(Theo Tạp chí Y Dược học, Trường Đại học Y – Dược Huế, tập 7, số 4 – tháng 8-2017)
(1) Đọc lưới văn bản và cho biết nghiên cứu này thuộc lĩnh vực nào?
(2) Phần Tóm tắt cung cấp thông tin ngắn gọn về những khía cạnh nào?
(3) Phần Kết quả cho biết các tác giả đã nghiên cứu những nội dung nào?
(4) Những ý kiến nêu ra ở phần Bàn luận được dựa trên những căn cứ nào?
(5) Em có đồng tình với Kết luận của báo cáo không? Vì sao?
Trả lời:
(1) Nghiên cứu này thuộc lĩnh vực “y tế công cộng”
(2) Phần Tóm tắt cung cấp thông tin ngắn gọn về những khía cạnh: lí do nghiên cứu, mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kết quả chính và kết luận.
(3) Phần Kết quả cho biết các tác giả đã nghiên cứu những nội dung sau: Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu; thời gian nghĩ đến và kiểm tra điện thoại thông minh; mức độ phụ thuộc điện thoại thông minh; sự liên quan giữa nghiện sử dụng điện thoại thông minh và rối loạn giấc ngủ. Tên các bảng đã nêu lên các nội dung nghiên cứu
(4) Những ý kiến nêu ra ở phần Bàn luận được dựa trên những căn cứ nghiên cứu điều tra thực tế trên đối tượng sinh viên vào năm 2015 và đối tượng học sinh trung học phổ thông vào cuối năm 2016 và đầu năm 2017.
(5) Em hoàn toàn đồng tình với Kết luận của báo cáo. Có thể thấy, trên thực tế, đây là lứa tuổi trẻ, dễ dàng tiếp cận được với công nghệ nhất, vì thế việc ở độ tuổi này nếu không quản lí tốt thì việc nghiện điện thoại thông minh rất dễ. Hơn nữa, ở độ tuổi này, nhiều bạn chưa thực sự trang bị tốt những kĩ năng quản lí thời gian, quản lí bản thân, chưa nhận thức được rõ ràng những tác hại cũng như nguy hiểm của điện thoại thông minh ảnh hưởng tới nên dễ dàng bị cuốn theo, dẫn tới nghiện sử dụng.
Câu 2 trang 40 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Em rút ra được những bài học gì sau khi đọc báo cáo nghiên cứu đã nêu ở bài tập 1 và trả lời các câu hỏi ở hộp bên phải văn bản?
Trả lời:
Bài học cá nhân rút ra: Bài học về việc quản lý thời gian biểu hàng ngày sao cho tốt, tránh dẫn tới tình trạng dành quá nhiều thời gian cho những việc không cần thiết. Việc trang bị kĩ năng quản lý thời gian biểu đóng vai trò hết sức cần thiết, quan trọng cho mỗi người; đặc biệt là các bạn trẻ. Nếu biết sắp xếp, quản lý tốt thì các bạn sẽ có thể vừa lĩnh hội được nhiều điều của thế giới bên ngoài mà cũng có thể giải trí, thư giản trên điện thoại thông minh. Việc quản lý tốt sẽ giúp các bạn tránh được những thất bại không đáng có trong học tập, trong đời sống; hơn thế nữa còn giúp các bạn có thể cân bằng với việc giao tiếp ở ngoài xã hội và thế giới ảo trên mạng.
Câu 3 trang 40 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Để viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội, em cần lưu ý những gì?
Trả lời:
Để viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội cần lưu ý:
- Tiến hành tự nghiên cứu (hoặc lập nhóm nghiên cứu) theo quy trình: xác định đề tài nghiên cứu (ở đây là một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội mà em quan tâm hoặc thích tìm hiểu), tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, xác định mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu: xác định phương pháp nghiên cứu: thu thập, lựa chọn và đọc các tài liệu tham khảo có liên quan; tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi hoặc trực tiếp phỏng vấn về thực trạng của vấn đề (nếu cần), phân tích, xử lí số liệu, thu thập, phân tích, nhận xét thông tin để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, tổng hợp kết quả nghiên cứu.
- Xây dựng dàn ý (đề cương) của báo cáo nghiên cứu.
- Viết báo cáo nghiên cứu dựa trên dàn ý đã lập.
- Ngoài dàn ý và cách trình bày báo cáo như trường hợp đã nêu ở ý I.1. mục I. Định hướng, có thể trình bày theo các cách khác, nhưng cần nhân mạnh những những kết quả nghiên cứu mới về vấn đề, trích dẫn các nguồn tư liệu một cách đầy đủ, đúng quy định. Phần cuối báo cáo nêu rõ các tài liệu tham khảo.
Câu 4 trang 40 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Cho hai yêu cầu sau:
(2) Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một giải pháp nhằm nâng cao ý thức chấp hành luật giao thông của học sinh trường em.
Em hãy chọn một trong hai yêu cầu trên, từ đó:
– Xây dựng dàn ý (đề cương) của báo cáo nghiên cứu.
– Viết báo cáo nghiên cứu dựa trên dàn ý đã lập.
Trả lời:
Đề 2:
* Dàn ý (Đề cương)
I. Giới thiệu:
A. Đặt vấn đề: Tình trạng chấp hành luật giao thông của học sinh tại trường.
B. Mục tiêu nghiên cứu: Nâng cao ý thức và tuân thủ luật giao thông của học sinh.
II. Phần nghiên cứu:
A. Tìm hiểu tình hình hiện tại:
1. Phân tích tình hình chấp hành luật giao thông của học sinh trường.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến ý thức và thái độ của học sinh về luật giao thông.
B. Nghiên cứu các phương pháp nâng cao ý thức chấp hành luật giao thông:
1. Xem xét các phương pháp hiện tại trong việc giáo dục về luật giao thông.
2. Tìm hiểu về các giải pháp đã áp dụng ở các nơi khác.
C. Lựa chọn giải pháp phù hợp.
1. Đánh giá tính hiệu quả và khả thi của từng giải pháp.
2. Chọn giải pháp phù hợp với tình hình và đặc điểm của trường.
III. Triển khai giải pháp
A. Mục tiêu cụ thể của giải pháp.
B. Cách thức triển khai, phân công trách nhiệm.
C. Xác định các chỉ tiêu đánh giá sự thành công của giải pháp.
IV. Đánh giá kết quả:
A. Thu thập thông tin sau khi triển khai giải pháp.
B. So sánh kết quả với mục tiêu đề ra.
C. Đánh giá ảnh hưởng và hiệu quả của giải pháp đối với ý thức chấp hành luật giao thông của học sinh.
V. Kết luận và đề xuất:
A. Tóm tắt kết quả nghiên cứu.
B. Đề xuất những phương án mở rộng hoặc cải thiện giải pháp đã thực hiện.
C. Rút ra những bài học kinh nghiệm và định hướng phát triển trong tương lai.
VI. Phụ lục:
A. Bảng số liệu, biểu đồ thống kê.
B. Hình ảnh, tài liệu tham khảo và các tài liệu liên quan
* Viết báo cáo:
Luật giao thông đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày, bảo đảm an toàn cho mọi người tham gia giao thông. Tại trường học, ý thức chấp hành luật giao thông của học sinh đóng vai trò quan trọng, và việc nâng cao ý thức này đồng nghĩa với việc xây dựng thế hệ trẻ có ý thức và trách nhiệm hơn trong việc tham gia giao thông.
Tại trường [Tên Trường], chúng ta cần tập trung vào việc giáo dục và tạo ra môi trường giúp học sinh tiếp xúc và nắm vững luật giao thông. Đầu tiên, việc đưa vào giảng dạy nội dung về luật giao thông trong chương trình học là một bước quan trọng. Học sinh cần được hướng dẫn về quy tắc giao thông, các biển báo, quy định về động cơ, và những nguyên tắc cần tuân thủ khi tham gia giao thông.
Ngoài ra, việc tạo ra các hoạt động thực tế để học sinh trải nghiệm và áp dụng kiến thức về luật giao thông cũng cần được thúc đẩy. Thiết kế các buổi tập huấn, thực hành tại trường hoặc khu vực xung quanh trường sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về việc áp dụng luật giao thông vào thực tế. Đồng thời, những buổi giảng chuyên đề, gặp gỡ với cán bộ từ cơ quan quản lý giao thông sẽ mang đến kiến thức bổ ích và chính xác hơn.
Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt kiến thức, mà chúng ta cần khuyến khích học sinh phát triển ý thức tư duy và trách nhiệm về việc chấp hành luật giao thông. Học sinh cần hiểu rằng, việc tuân thủ luật giao thông không chỉ mang lại an toàn cho bản thân mình mà còn đóng góp vào việc duy trì trật tự, an toàn và văn minh giao thông của xã hội.
Ngoài việc tạo ra các hoạt động giáo dục, tạo cơ hội trải nghiệm, việc tạo lập môi trường giáo dục tích cực, khích lệ sự tham gia tích cực của học sinh trong các hoạt động xã hội là điều quan trọng. Học sinh cần được khuyến khích tham gia vào các hoạt động tình nguyện, giúp đỡ cộng đồng, và từ đó nhận thức rõ hơn về ý thức chấp hành luật giao thông và trách nhiệm của mình.
Nhìn chung, việc nâng cao ý thức chấp hành luật giao thông của học sinh tại trường là nhiệm vụ không chỉ của trường học mà còn của toàn xã hội. Cần tạo ra một môi trường giáo dục tích cực và cùng nhau xây dựng thế hệ trẻ có ý thức, hiểu biết và trách nhiệm cao về việc tham gia giao thông, góp phần xây dựng một xã hội an toàn và phát triển.
Câu 5 trang 41 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Để trình bày báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội, em cần chú ý những gì?
Trả lời:
Để trình bày báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội cần chú ý:
+ Xác định vấn đề cần nghiên cứu.
+ Vận dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp, đúng mục đích.
+ Các thông tin, dẫn chứng cần phải rõ ràng, chính xác.
+ …
Câu 6 trang 41 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Theo em, khi trình bày báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội, người nói cần làm gì để thu hút sự chú ý của người nghe?
Trả lời:
Khi trình bày báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội, để thu hút sự chú ý của người nghe người nói cần:
- Phần mở đầu cần có sự dẫn dắt người đọc một cách thu hút, hấp dẫn, để người nghe cảm thấy thích thú, tò mò, muốn được lắng nghe, tìm hiểu.
- Nội dung trình bày cần có tính xác thực, thuyết phục và đúng với thực tế nhất
- Khi trình bày chỉ nên đưa ra những ý chính, ý lớn, quan trọng; tránh nói rườm rà, lan man, dài dòng, không cần thiết.
- Cần có những cách trình bày thu hút, sinh động, logic, dễ hiểu; có thể sử dụng hình ảnh minh họa, dẫn chứng bằng video, trình bày nội dung bằng slides…
- Khi kết thúc cần biết tổng kết lại vấn đề chung nhất, chính xác và cần thiết nhất cho người đọc.