
Anonymous
0
0
Văn học và tác dụng chiều sâu trong việc xây dựng nhân cách văn hóa con người - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 12 - Cánh diều
- asked 4 months agoVotes
0Answers
0Views
Tác giả tác phẩm: Văn học và tác dụng chiều sâu trong việc xây dựng nhân cách văn hóa con người - Ngữ văn 12
I. Tác giả Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Hiến (1930 – 2011) quê ở Hà Tĩnh, là nhà nghiên cứu – phê bình văn học.
II. Tìm hiểu văn bản Văn học và tác dụng chiều sâu trong việc xây dựng nhân cách văn hóa con người
1. Thể loại
- Tác phẩm Văn học và tác dụng chiều sâu trong việc xây dựng nhân cách văn hóa con người thể loại: văn bản nghị luận.
2. Xuất xứ
- Trích trong Triết lí văn hóa và triết luận văn chương, NXB Giáo dục, 2006.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: nghị luận.
4. Bố cục Văn học và tác dụng chiều sâu trong việc xây dựng nhân cách văn hóa con người
- Phần 1 (từ đầu đến … “của truyền hình”): nêu vấn đề chính của tác giả muốn triển khai.
- Phần 2 (tiếp theo đến … “tìm đến nó”): sự khác nhau giữa xem truyền hình và đọc sách.
- Phần 3 (tiếp theo đến … “giấy tờ”): tầm quan trọng của văn học và nghệ thuật.
- Phần 4 (đoạn còn lại): khẳng định của tác giả về việc xây dựng nhân cách văn hóa con người.
5. Tóm tắt Văn học và tác dụng chiều sâu trong việc xây dựng nhân cách văn hóa con người
Văn bản nói về những bàn luận của tác giả về giá trị, vai trò của văn học nghệ thuật đối với việc xây dựng nhân cách văn hóa con người. Tác giả đã đưa ra những lí lẽ và rất nhiều dẫn chứng để nêu lên một số vấn đề về sách, cũng như chứng minh những giá trị và chức năng của văn học nghệ thuật.
6. Giá trị nội dung
- Văn bản nói về những bàn luận của tác giả về giá trị, vai trò của văn học nghệ thuật đối với việc xây dựng nhân cách văn hóa con người. Tác giả đã đưa ra những lí lẽ và rất nhiều dẫn chứng để nêu lên một số vấn đề về sách, cũng như chứng minh những giá trị và chức năng của văn học nghệ thuật.
7. Giá trị nghệ thuật
- Lí lẽ, dẫn chứng lập luận thuyết phục, logic.
III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Văn học và tác dụng chiều sâu trong việc xây dựng nhân cách văn hóa con người
1. Ý nghĩa của vấn đề: vai trò của văn học trong việc xây dựng nhân cách văn hóa con người
- Vấn đề: vai trò, chức năng của văn học trong việc xây dựng nhân cách con người.
=> Tác giả đã phân tích ý nghĩa của vấn đề ấy bằng cách nêu lên để bàn luận. Tác giả nêu vấn đề, luận điểm của mình, sau đó sử dụng những lí lẽ, dẫn chứng để chứng mình cho luận điểm ấy.
- Một số biện pháp làm tăng tính khẳng định và phủ định :
+ Dùng các từ, các câu khẳng định, phủ đinh : “con người không phải lúc nào cũng làm chủ được bản thân mình”; “văn học có tác dụng to lớn và sâu sắc giúp con người hiểu chính mình”; “ không đòi hỏi nỗ lực tích cực của trí tuệ”;…Các câu văn chứ những từ ngữ phủ định hoặc khẳng định mạnh mẽ như : không, không phải, có. Dựa vào các từ ngữ đó đã thể hiện rõ ràng lập luận của tác giả, gia tăng thêm tính phủ định và khẳng định cho văn bản.
+ Sử dụng giọng điệu mạnh mẽ, kiên quyết : “chỉ có văn học nghệ thuật mới soi thấu” ; “cần sử dụng truyền hình để tuyên truyền cho sách”. Với những câu văn mang sắc thái khẳng định cao và mang tính chất yêu cầu không phải cầu khiến, thông qua giọng điệu mạnh mẽ đã khẳng định giá trị, vai trò thực sự quan trọng của văn chương.
2. Cách lập luận và ngôn ngữ trong văn bản
- Cách lập luận:
+ Văn bản có cách lập luận chặt chẽ, được biểu hiện qua các luận điểm rõ ràng như câu văn “tôi muốn nêu mấy suy nghĩ về vị thế của văn học”; lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục.
+ Đằng sau mỗi luận điểm, tác giả đều đưa ra dẫn chứng thiết thực, hợp lý.
+ Kết hợp với việc dùng các từ, các câu khẳng định, phủ định. Dựa vào các từ ngữ đó đã thể hiện rõ ràng lập luận của tác giả.
- Ngôn ngữ biểu cảm : Giàu màu sắc biểu cảm. Thể hiện qua việc tác giả kết hợp nhiều từ ngữ, như kết từ và tình thái từ : Vả chăng, đành rằng, thậm chí, lúc nào cũng, hơn lúc nào hết, quá,…
IV. Đọc văn bản Văn học và tác dụng chiều sâu trong việc xây dựng nhân cách văn hóa con người
Văn học và tác dụng chiều sâu trong việc xây dựng nhân cách văn hóa con người
Hoàng Ngọc Hiến
Tôi có ba kiến nghị:
- Để sách có thể cạnh tranh được với truyền hình, cần quan tâm hơn nữa đến hình thức của sách: hình thức trình bày và hình thức diễn đạt ngôn từ.
Cần sử dụng truyền hình để tuyên truyền cho sách. Mục mới mở Mỗi ngày một cuốn sách của Đài Truyền hình Việt Nam là một sáng kiến hay, cần mở thêm nhiều mục nữa. [..]
Truyền hình có thể lấn át văn hoá đọc nhưng cũng chính truyền hình sẽ hỗ trợ văn hoá đọc nếu như sách và những người làm sách biết tìm đến nó.
Con người không phải lúc nào cũng làm chủ được bản thân mình. Vả chăng, hiểu được bản thân mình không phải là dễ. Văn học có tác dụng to lớn và sâu sắc giúp cho con người hiểu được chính mình. Khoa học khai hoá nhận thức về tự nhiên, về xã hội và con người nói chung. Nhưng trong đời sống tâm hồn và tâm lí của con người ngày càng trở nên phức tạp, có những mảng, những lớp chiều sâu, những uẩn khúc chỉ có văn học và nghệ thuật mới soi thấu. Trái tim của con người có những lí riêng mà lí trí của khoa học khó nắm bắt. Có những tác phẩm đọc xong ta thấy bàng hoàng: Lần đầu tiên ta nhận ra được con người thật của mình. “Người cao thượng không phải là không bao giờ đề tiện, người cao thượng biết rằng mình có những lúc đê tiện.” (Bi-ê-lin-xki). Đến đây có thể thấy rõ hơn vai trò của văn nghệ trong đời sống đạo đức: nó giúp cho con người tự biết mình, cả những mặt yếu lẫn mặt mạnh, những tiềm lực lớn lao ta không ngờ đến. Tác động gián tiếp này nhiều khi còn mạnh mẽ hơn sự “cải tạo” trực tiếp. Quan niệm truyền thống về văn học coi trọng tác dụng trực tiếp của văn học. Nhưng có một quan niệm khác về chức năng giáo dục của văn học. Triết gia Se-ne-ca (Seneca)? là người thấu hiểu điều này: “Vấn đề không phải là ở chỗ văn học nghệ thuật có thể cung cấp đạo đức mà ở chỗ chúng chuẩn bị tâm hồn cho sự tiếp thu đạo đức”. Những tác phẩm cổ điển bao giờ cũng có giá trị tâm lí sâu sắc, phát huy sự tự ý thức của người đọc và đây là một sự chuẩn bị quan trọng cho sự hoàn thiện đạo đức.
Chỉ tham gia vào thực tiễn xã hội con người mới được rèn luyện và thực sự trưởng thành. Nhưng sự cải hoá và sự tiến bộ của con người không thể là kết quả tự phát của sự tham gia công tác thực tiễn, nhất là phải có sự chuẩn bị, sự trang bị. Cách mạng tư tưởng và văn hoá là sự chủ động của con người trong sự cải tạo bản thân mình. Thực tiễn có thể tác động tới tư tưởng con người theo những chiều hướng rất khác nhau. Thực tiễn chiến trường đã từng là trường học dũng cảm cho bao thế hệ
Trước hết, đó là sự phát hiện những điều bí ẩn và huyền diệu. Trong đời sống tâm hồn con người, trong những số phận và tính cách con người rất khác nhau, trong những bước thăng trầm lịch sử tác động đến số phận của cả một dân tộc hoặc nhiều dân tộc, có biết bao điều bí ẩn, huyền diệu mà chỉ tư duy khoa học không chưa đủ, phải có trực giác nghệ thuật thì mới phát hiện được. Đành rằng bản thân sự công bố sự thật có thể hết sức quan trọng. Đành rằng có những tác phẩm giá trị tư tưởng và nghệ thuật không bao lăm nhưng trở thành nổi tiếng nhờ cái sự thật được công bố. Trong văn học nghệ thuật – có thể tìm thấy ở đây một sự khác biệt với báo chí còn quan trọng hơn sự công bố sự thật là việc giáo dục năng lực cảm nhận sự thật. Quen sống với sự dối trá, mập mờ, khả năng cảm nhận sự thật ở con người có thể bị cùn đi, thậm chí có thể bị dị ứng, khi buộc phải nhìn sự thật. Cũng không kém phần quan trọng là sự giáo dục năng lực cảm nhận những nỗi đau nhân tình, sự giáo dục năng lực cảm nhận cái đẹp. Quen với lối sống bo bo, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình, vơ vét cho mình, khiến năng lực cảm nhận nỗi đau của những người xung quanh có thể bị mai một, có thể đi đến chỗ hoàn toàn dửng dưng với số phận của người khác. Mặt khác, cuộc sống hiện đại hầu như ở khắp mọi nơi ngày càng mang tính chất thực dụng – với nghĩa xấu nhiều hơn là với nghĩa tốt của từ này – trên cơ sở này, năng lực cảm nhận cái đẹp ở con người ngày càng sút kém, càng nghèo đi. Hơn lúc nào hết phải nhấn mạnh vào chức năng giáo dục của văn học nghệ thuật. Nhưng chỉ nói đến giáo dục đạo đức thì quá ít. Giáo dục năng lực cảm nhận sự thật, năng lực cảm nhận nỗi đau nhân tinh, cảm nhận cái đẹp — đó là sứ mệnh vĩnh cửu, bao trùm của văn học nghệ thuật
(Triết lí văn hoà và triết luận văn chương, NXB Giáo dục, 2006)