
Anonymous
0
0
TOP 10 mẫu Thuyết minh về một quy trình hoạt động hoặc một đối tượng mà bạn quan tâm (2024) SIÊU HAY
- asked 4 months agoVotes
0Answers
0Views
Thuyết minh về một quy trình hoạt động hoặc một đối tượng mà bạn quan tâm
Đề bài: Viết bài thuyết minh về một quy trình hoạt động hoặc một đối tượng mà bạn quan tâm. Bài viết có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận.
Dàn ý Thuyết minh về một quy trình hoạt động hoặc một đối tượng
a) Mở bài:
- Một loại bánh không thể nào thiếu được trong ngày Tết Trung thu đó chính là chiếc bánh trung thu.
- Một loại bánh chất chứa hạnh phúc đầm ấm của gia đình.
b) Thân bài:
1. Nguồn gốc, xuất xứ
- Có nguồn gốc từ Trung Quốc và được gọi là bánh Nguyệt.
- Theo sử sách ghi chép từ thời Ân, Chu ở vùng Triết Giang đã có loại bánh kỷ niệm Thái Sư Văn Trọng gọi là bánh Thái Sư. Bánh này có thể coi như là thuỷ tổ của bánh Trung Thu.
- Vào thời Tây Hán, Trương Thiên đi Tây Vực mang về Trung Quốc hạt Mè, hạt Hồ đào, dưa hấu làm nguyên liệu cho bánh Nguyệt thêm dồi dào.
- Thời đó hồ đào là nguyên liệu chính của bánh Nguyệt nên còn gọi là bánh hồ đào.
- Đến thời Đường trong dân gian có những ngưòi hành nghề làm bánh, ở thành phố Trường An có những tiệm bánh trứ danh.
- Tương truyền có một đêm Trung Thu Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi ăn bánh hồ đào, thuởng ngoạn trăng rằm, Đường Huyền Tông chê tên bánh Hồ nghe không hay nên đặt tên là Bánh Nguyệt cho thơ mộng hơn, nên từ đó về sau thứ bánh này có tên là bánh Nguyệt (tên người Trung Quốc đặt) và trở thành bánh Trung Thu khi du nhập vào Việt Nam.
2. Cách làm bánh
- Bánh có hai phần: Phần áo và phần nhân.
- Áo bánh phải chọn gạo nếp vàng, vùng Trôi hoặc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang.
- Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Tất cả những công đoạn kể trên đều phải do một bàn tay thợ có “nghề” đã được “hạ sơn” đảm nhiệm.
- Người thợ không được sai sót một khâu nào. Sai một ly đi một dặm.
- Lúc ra khuôn, cái bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh.
- Khuôn mặt áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu. Phần nhân bánh nhất thiết phải do thợ cả quán xuyến với những khâu quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ vừng, xử lí mứt bí khẩu, mứt sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho nhân…
3. Các loại bánh Trung thu
- Bánh dẻo làm bằng bột nếp trắng tinh nhồi với đường với nước hoa bưởi thơm lừng, đúc trong khuôn gỗ thường hình tròn, nhân làm bằng hột sen hay đậu xanh tán nhuyễn là chiếc bánh Trung Thu mang sắc thái Việt Nam hơn bánh nướng.
- Theo khẩu vị Hà Nội, bánh dẻo thường ngọt sắc hơn trong Nam.
- Đường kính của bánh thường rất lớn, có thể gần bằng chiếc mâm, để thể hiện hình dáng của vầng trăng thu lớn và trắng ngà trong biểu tượng của ý nghĩa “đoàn viên của gia đình” và nhất ià tình yêu khắng khít vợ chồng.
- Bánh nướng Trung Thu hầu như vẫn trong bí quyết chế biến của dân Việt gốc Hoa.
- Hình dáng bánh nướng thường vuông hay tròn, thường đựng vừa khít bốn chiếc trong một cái hộp giấy vuông.
- Vỏ bánh làm bằng bột mì dậy men trộn vói trứng gà và chút rượu, nhân thì có thể thuần tuý thường làm bằng đậu xanh, khoai môn, hay hột sen tán nhuyễn bao bọc lấy một hay hai tròng đỏ trứng vịt muối có mùi vani hay sầu riêng hoặc là nhân thập cẩm gồm đủ thứ như dăm bông, thịt quay, vi yến, dừa, hạt dưa, vỏ quít, ngó sen, bí đao.
- Một điểm cần biết là những chiếc bánh nướng Trung Hoa mà chúng ta quen ăn ở Việt Nam hay mua tại những tiệm Hoa đại đa số ở hải ngoại chính là thoát thai từ kiểu thức và khẩu vị của vùng Quảng Đông bên Trung Hoa với những đặc điểm sau: vỏ bánh có vị ngọt, bánh đúc từ khuôn gỗ, còn về nhân thì thập cẩm bao gồm đến 200 loại vô cùng phong phú.
4. Cách thưởng thức
- Về mặt thưởng thức, bánh nướng mới ra lò ăn không ngon vì vỏ khô cứng mà phải chờ ba ngày sau, mỡ trong lớp nhân mới rịn ra làm bánh ăn mềm và thơm ngon.
- Mặc dù người ta quảng cáo bánh có thể bảo quản lâu đến một tháng nhưng điều kiện khí hậu bình thường thì bánh chỉ nên ăn trong vòng hai tuần là tối đa nếu không thì ngửi khét dầu và làm sình bụng.
c) Kết bài:
- Có chiếc bánh trung thu vào ngày Tết Trung thu thể hiện sự sum họp, hạnh phúc gia đình.
- Chiếc bánh dẻo tròn, gợi hình mặt trăng thể hiện sự tròn đầy, viên mãn.
Thuyết minh về một quy trình hoạt động hoặc một đối tượng (mẫu 1)
Thuyết minh về bánh Trung thu
Tết Trung thu, phải nói đến chiếc bánh nướng, bánh dẻo kì diệu, cũng giống như chiếc bánh chưng trong những ngày Tết Nguyên Đán và quy trình làm ra chiếc bánh Trung thu cũng thật đáng chú ý.
Bánh dẻo có hai phần: Phần áo và phần nhân. Áo bánh phải chọn gạo nếp vàng, vùng Trôi hoặc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Tất cả những công đoạn kể trên đều phải do một bàn tay thợ có “nghề” đã được “hạ sơn” đảm nhiệm. Người thợ không được sai sót một khâu nào. Sai một ly đi một dặm. Lúc ra khuôn, cái bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh. Khuôn mặt áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu. Phần nhân bánh nhất thiết phải do thợ cả quán xuyến với những khâu quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ vừng, xử lí mứt bí khẩu, mứt sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho nhân…
Nhân của bánh dẻo chay tịnh, nặng mùi hương đồng gió nội. Mãi về sau này, người ta mới phá cách cho thêm lạp sường vào. Nhân bánh nướng được cải tiến với nhiều sáng kiến. Mỗi hiệu bánh đều muốn có phần độc đáo của mình. Vả lại bánh nướng là “em” của bánh dẻo. Nó sinh sau đẻ muộn, mới xuất hiện từ năm 1930 nên lắm trò hơn. Ngoài mứt bí, hạt dưa, nhân bánh nướng còn có thêm cả ruột quả trứng ở giữa hoặc thịt lợn quay, gà quay, lạp sường…gọi là nhân thập cẩm… Bánh nướng cũng có loại nhân chay bằng đậu xanh mịn, dừa sợi, hạt sen.
Bánh dẻo trắng trong, bánh nướng có màu vàng sẫm và vàng nhạt do chỗ nướng già, nướng non tạo ra, thường có đường kính chừng 7-8cm, chiều dày 2,5-3cm. Cứ 4 cái bánh được xếp chồng lên nhau là một cân. Ngoài giấy bọc có in nhãn hiệu đẹp và nhiều màu sắc. Đặc biệt là các hiệu người Hoa rất chú ý in nhãn hiệu thật nổi. Nhiều nhà còn đặt làm những chiếc bánh dẻo đặc biệt to bằng chiếc đĩa tây hoặc gần bằng cái mâm, trên có hình mặt trăng tròn, lưỡng long tranh châu, song phượng…
Nghĩa là người thợ làm cả cái việc tạo hình trên chiếc bánh. Bánh dẻo, bánh nướng Trung thu nói lên cái tài hoa của người thợ. Ngay cả ở các hiệu lớn của người Hoa trước đây, thợ Việt Nam cũng chiếm 70-90%. Hằng năm, cứ đến gần Tết Trung thu là các hiệu lại rộn rã cho người về các vùng lân cận, đón các phường thợ làm bánh nổi tiếng ra Hà Nội vào mùa. Các chủ hiệu ưu ái họ lắm, mỗi người được chủ hiệu phát một áo choàng trắng, mũ trắng và một đôi guốc mộc. Các cửa hàng lấy làm hãnh diện đã mời được ông Toán làng Bưởi, các ông Ba Thiện xã Cào ở tỉnh Sờn, ông Quế Xuân Tảo Sở, hoặc ông Lý Bắc Ninh.
Sự thật đã có một thời vẻ vang, các hiệu bánh Tùng Hiên, Tràng Thái, Ngọc Anh, Cự Hương, Việt Hương… đã nổi danh xa gần ai cũng biết tiếng. Bánh của họ đủ sức cạnh tranh với các hiệu người Hoa như Tây Nam, Mỹ Kinh. Từ kẻ chợ đến vùng quê, nhân dân các tinh khác không bao giờ quên, sản phẩm của họ với cái “tạng”, cái “gu” Việt Nam. Có điều, các hiệu của người Hoa chú ý nhiều đến bao bì, quảng cáo hơn. Họ tiếp khách niềm nở với đủ những chi tiết tế nhị và tỉ mỉ.
Tết Trung thu, nhà nào cũng phải có bánh dẻo. Người nghèo cũng cố mua cho con cái một vài cái bánh dẻo. Không có bánh dẻo tức là không có Tết. Người ta làm quà cho ân nhân, khách quý, bạn thân…bằng bánh Trung thu. Chiếc bánh dẻo tròn, gợi hình mặt trăng thể hiện sự tròn đầy, viên mãn.
Vào những năm 1989 – 1990, những chiếc bánh Trung thu từng tham dự các Hội chợ quốc tế ở đức và Bun-ga-ri, gây sự chú ý đặc biệt và được tặng Huy chương độc đáo. Chúng mang mùi vị, thanh sắc Việt Nam, kèm theo cái nghệ thuật thưởng thức miếng ngon tinh tế, thanh nhã. Nó cũng là biểu tượng văn hóa của Việt Nam. Chiếc bánh Trung thu sẽ trường tồn. Chúng ta mong sao có thêm nhiều người thợ tài hoa kế tục nghệ thuật làm bánh Trung thu truyền thống, không những cho mọi người mà còn cho khách nước ngoài thưởng thức mỗi khi đến với mùa Tết Trung thu.
Đập niêu đất là trò chơi không biết có từ bao giờ nhưng đến nay, nó đã trở thành hoạt động không thể thiếu trên quê hương em trong những ngày đầu xuân năm mới.
Đập niêu đất là một trò chơi thú vị. Vì vậy, nó đã thu hút sự tham gia cổ vũ của rất nhiều người. Trò chơi thường được làng em tổ chức vào mồng 4 Tết hàng năm. Trong làng lại có các thôn, xóm nhỏ nên các thôn, xóm sẽ cử ra hai người làm thành một đội chơi tham gia tranh tài.
Để chơi trò chơi, người ta dựng đoạn tre to, chắc khỏe cao khoảng hai mét xuống đất. Sau đó, nối hai cây lại với nhau bằng một đoạn tre nằm ngang. Lúc này ba đoạn tre đã tạo thành hình giống như một cái cổng nhà. Trên thanh tre nằm ngang, ban tổ chức sẽ treo khoảng năm, sáu niêu đất lủng lẳng. Nhiệm vụ của các đội chơi là phải cầm gậy gỗ đập hết các niêu đất đó trong thời gian sớm nhất để giành chiến thắng. Để cho cuộc chơi thêm phần hấp dẫn, ban tổ chức đã yêu cầu một đội chơi phải có một người cõng một người trên lưng, cả hai người sẽ cùng bị bịt mắt và dựa vào trí nhớ của mình để đập niêu đất.
Để công bằng, các đội chơi sẽ lần lượt chơi và có trọng tài bấm giờ. Mỗi khi có hiệu lệnh xuất phát, các đội chơi sẽ phải dựa vào trí nhớ của mình và sự chỉ dẫn của dân làng để xác định và tiến đến vị trí của niêu đất; người được cõng trên lưng sẽ cố gắng đập vỡ niêu đất, còn người cõng sẽ cố gắng đứng vững và di chuyển theo sự chỉ dẫn của dân làng. Vì thế, mỗi khi một đội chơi xuất phát là tiếng hò reo, cổ vũ lại vang lên tạo thành một bầu không khí rất vui nhộn.
Sau khi các đội chơi của các thôn, xóm đã chơi xong, người dân trong làng và du khách có thể trực tiếp tham gia trò chơi để tự mình trải nghiệm cảm giác đập niêu đất.
Em rất yêu thích và mong chờ trò chơi đập niêu đất. Trò chơi đã trở thành niềm vui, thành nét văn hóa độc đáo trên quê hương em. Nó giúp cho mọi người cảm thấy vui vẻ hơn khi tết đến, xuân về và nó cũng làm cho con người ở làng quê trở nên gần gũi, thân thuộc với nhau hơn.
Thuyết minh về một quy trình hoạt động hoặc một đối tượng (mẫu 5)
Khi nhắc đến Hàn Quốc chúng ta không thể nào bỏ qua món ăn “quốc dân” - kim chi trong ẩm thực của xứ Hallyu.
Kim chi được chế biến bằng cách lên men các loại rau củ và ớt, hòa quyện hương vị chua chua cay cay ngon miệng. Nguyên liệu làm chi thường là bắp cải, cải thảo, hành lá, dưa chuột, bột ớt,.. Kim chi là món ăn kèm không thể thiếu trong những bữa ăn của người Hàn Quốc. Không chỉ dừng lại là món ăn quốc dân của Hàn Quốc, kim chi còn được đông đảo du khách trên thế giới đón nhận nồng nhiệt bởi hương vị thơm ngon, độc đáo, không thể nhầm lẫn với món nào cũng với những lợi ích sức khỏe mà nó mang lại.
Nguyên lý làm kim chi là một nguyên lý tổng hòa tự nhiên. Người Hàn Quốc cho rằng muốn kim chi ngon thì phải có đủ 2 loại rau là cải thảo và củ cải. Trong đó cải thảo mọc ở trên mặt đất (biểu thị cho yếu tố Dương), củ cải mọc trong lòng đất (biểu hiện cho yếu tố Âm). Sự kết hợp giữa 2 loại rau củ này cũng được xem là sự kết hợp của 2 yếu tố Âm – Dương. Chính vì sự kết hợp này vừa có tác dụng kích thích khẩu vị của người ăn, vừa giúp cho việc điều hòa cơ thể, cung cấp chất dinh dưỡng.
Ngày nay, kim chi là loại thực phẩm “đa năng” nhất, có thể dùng làm nguyên liệu chế biến thành nhiều món ăn, hay đơn giản là ăn trực tiếp trong các bữa ăn của người Hàn Quốc. Có tới hơn 100 loại kim chi, không chỉ phổ biến ở Hàn mà còn được ưa thích tại rất nhiều nước trên thế giới. Mặc dù không ai có thể xác định được kim chi là một loại dưa chua hay salad, nhưng hương vị của nó đủ để chinh phục những người sành ăn nhất.
Kim chi mang đến nhiều lợi ích cho sức khỏe người dùng như: Kháng khuẩn, ngăn chặn viêm đường ruột, giúp tiêu hóa dễ dàng, ngăn ngừa béo phì, ngăn chứng xơ cứng động mạnh, chống lão hóa, giảm mỡ trong gan, chống axit hóa,… Kim chi có thể dùng trực tiếp hoặc chế biến cùng các thực phẩm khác để thành các món ăn khác nhau: Cơm rang kim chi, lẩu kim chi, mì kim chi, bánh kim chi rán, há cảo nhân kim chi, canh kim chi hầm thịt, kim chi đậu hũ,… Nhiều người nhận xét, kim chi cay được dung hòa trong các món ăn phương Tây rất thú vị. Cứ thế, kim chi vượt qua ranh giới lãnh thổ Hàn Quốc, có mặt khắp các nơi trên thế giới, trở thành món ăn quen thuộc.
Thuyết minh về một quy trình hoạt động hoặc một đối tượng (mẫu 6)
Từ lâu, Trung thu đã trở thành một ngày Tết của thiếu nhi. Và trong ngày này, chúng ta không thể thiếu bánh Trung thu.
Bánh Trung thu có ý nghĩa là bánh mặt trăng. Chính vì vậy, mặt bánh thường có hình tròn. Sự tích ra đời chiếc bánh này gắn liền với cuộc khởi nghĩa của Chu Nguyên Chương người Trung Quốc. Chiếc bánh được tạo hình tròn từ nhân cho đến vỏ, gửi đi thông điệp sẽ khởi nghĩa vào ngày trăng tròn tháng tám. Từ đó, chiếc bánh đã trở thành món ăn không thể thiếu trong ngày này.
Bánh Trung thu được chia ra làm hai loại là bánh dẻo và bánh nướng. Điểm khác nhau giữa chúng nằm ở phần vỏ bánh:
- Bánh dẻo có màu trắng, mềm hơn. Đúng như tên gọi, vỏ của nó được làm từ bột bánh dẻo, nước đường, không cần nấu lên mà chỉ cần trộn hai nguyên liệu này lại, ủ bột khoảng 30 phút rồi bỏ ra nhào lại, thêm nhân, tạo hình là ta đã có một chiếc bánh dẻo thơm ngon
- Bánh nướng có màu vàng sẫm. Vỏ bánh thường được làm bằng bột mì đa dụng. Sau khi nhào bột, thêm nhân và tạo hình, ta mang bánh đi nướng là hoàn thành.
Không biết bánh Trung thu có từ bao giờ nhưng nó đã trở thành thứ quà không thể thiếu mỗi tháng tám trăng tròn. Vì bánh Trung thu có vị ngọt, người ta thường thưởng thức nó cùng với cốc trà để trung hòa lại hương vị. Cùng với đèn ông sao, mâm ngũ quả, loại bánh này đã trở thành biểu tượng của ngày lễ Trung thu.
Thuyết minh về một quy trình hoạt động hoặc một đối tượng (mẫu 7)
Cà phê là một thức uống nổi tiếng không thể thiếu tại nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam (Nghị luận). Cứ vào mỗi độ tháng 9 hằng năm, những nơi trồng cà phê tại nước ta như Lâm Đồng, Buôn Mê Thuật,… lại nô nức thu hoạch và chế biến cà phê (Tự sự). Quy trình thu hoạch và chế biến cà phê vô cùng kì công.
Thu hoạch cà phê có hai cách là thu hoạch theo dãy và thu hoạch có chọn lọc. Nếu người nông dân chọn thu hoạch theo dãy sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian nhưng lại không bảo đảm được chất lượng cà phê. Thu hoạch theo dãy đúng như tên gọi, cà phê sẽ được thu hoạch tất cả theo từng dãy, có thể bằng máy móc hoặc bằng tay để cho quả cà phê rụng xuống và lấy tất cả kể cả quả xấu hay đẹp (Miêu tả). Còn thu hoạch có chọn lọc thì tốn rất nhiều thời gian nhưng chất lượng cà phê lại được đảm bảo. Những người nông dân sẽ chọn từng cây có quả cà phê đạt chuẩn, chín đủ để thu hoạch riêng và cùng lúc thu hoạch những quả cà phê xấu, không đạt chuẩn riêng. Dù thu hoạch bằng cách nào thì cà phê cũng không được để kín quá một ngày và để quá dày, chồng lên nhau vì nó rất dễ bị hỏng, không bảo đảm được chất lượng nếu gặp nhiệt cao quá hay ẩm quá. Quy trình chế biến cà phê cũng rất tỉ mỉ, mất nhiều công sức của người nông dân. Chế biến cà phê thường có hai kiểu là ướt và khô. Chế biến cà phê ướt được thực hiện theo các công đoạn sau. Thứ nhất, người nông dân thu hoạch cà phê về và loại bỏ tạp chất bị lẫn khi thu hoạch như cà phê khô hỏng, sỏi, đá, cành cây,…Sau đó xát vỏ cà phê để loại bỏ chất nhựa dính nhớt, rồi đem đi ngâm rửa với nước. Và cuối cùng là phơi khô cà phê bằng ánh nắng mặt trời hoặc dùng máy sấy để sấy cà phê. Cách chế biến khô thì ngược lại, cà phê sẽ được phơi khô hoặc sấy trước rồi mới đem đi xát và loại bỏ tạp chất. Nhưng dù chế biến bằng cách nào người nông dân cũng phải chú trọng đến việc bảo quản sau chế biến, như vậy cà phê mới đạt chất lượng cao, tạo thu nhập tốt cho họ
Chắc rằng không chỉ có em yêu thích cà phê mà rất nhiều người cũng như vậy (Biểu cảm). Sau khi biết về quy trình thu hoạch và chế biến cà phê em càng dành tình cảm nhiều hơn cho thức uống này vì để có được một cốc cà phê thơm ngon cho chúng ta uống, người nông dân đã phải trải qua rất nhiều công đoạn tỉ mỉ và kì công.
Thuyết minh về một quy trình hoạt động hoặc một đối tượng (mẫu 8)
Việt Nam là một đất nước rất giàu các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống. Và một trong số các làng nghề truyền thống mà em rất yêu thích chính là làng tranh Đông Hồ.
Đông Hồ, một cái tên làng quen thuộc xinh xắn nằm bên bờ sông Đuống thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bắc cũ (nay là tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội chừng trên 35 km). Từ lâu tên làng đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi dân Việt Nam bằng những bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà sắc thái dân tộc.
Để hoàn thành một bức tranh, người làm tranh phải rất công phu, cẩn thận và thực hiện nhiều giai đoạn: sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quét điệp rồi lại phơi giấy cho khô lớp điệp, khi in tranh phải in từng màu lần lượt, nếu có 5 màu thì 5 lần in, mỗi lần in là một lần phơi… Cứ như thế, từng lớp, từng lớp dưới ánh sáng mặt trời lấp lánh các hình ảnh, đường nét của cảnh sắc thiên nhiên, nếp sinh hoạt của người dân cứ hiện ra làm say đắm lòng người.
Tranh dân gian Đông Hồ đã trải qua rất nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử. Có một dạo nghề tranh bị lãng quên nên đã mai một nhiều. Không ít hộ đã bỏ lại tranh chuyển sang làm nghề vàng mã. Tuy nhiên một vài năm trở lại đây, nhận ra giá trị mộc mạc, vẻ đẹp sang trọng của tranh Đông Hồ mà nghề tranh đã được “tái phục hồi” trở thành một trong những thứ không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người nhất là dịp tết đến xuân về.
Xã hội ngày càng phát triển, sẽ có nhiều loại tranh ra đời nhưng tranh Đông Hồ mãi là dòng tranh độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nó không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn là nét đẹp văn hóa của dân tộc. Vì vậy, thế hệ hôm nay hãy bảo tồn và phát huy để “màu dân tộc” sẽ mãi luôn “sáng bừng trên giấy điệp”.
Thuyết minh về một quy trình hoạt động hoặc một đối tượng (mẫu 9)
Với sự đa dạng về các làng nghề đã làm nên bè dày lịch sử về văn hóa nghệ thuật của người Viêt. Và một trong số các làng nghề nổi tiếng của nước ta không thể không nhắc đến đến làng gốm Bát Tràng.
Để tạo nên được một tác phẩm gốm bát tràng nghệ thuật phải trải qua rất nhiều công đoạn.
Xử lí đất sét
Nguồn đất sét hiện nay có thể lấy từ trong làng hoặc các vùng như Hổ Lao, Trúc Thôn… đem về ngâm trong bể chứa. Đất ủ càng lâu sẽ mang đến cho bạn một sản phẩm càng tốt. Chính vì thế bước này cực kỳ quan trọng. Phải loại bỏ hoàn toàn những tạp chất gây nguy hiểm cho sức khỏe người sử dụng.
Nặn cốt, phơi khô sản phẩm
Những thợ gốm sẽ bắt đầu dùng các khuôn bằng gỗ hoặc thạch cao để in sản phẩm lên và sửa hàng rồi đem đi phơi khô trước khi quét men.
Quét men
Hiện tại người ta chia thành 5 lớp men khác nhau như: men rạn, men thô, men chảy, men trơn và men lam. Những thợ gốm, những người nghệ nhân tại làng gốm bát tràng truyền thống nổi tiếng này sẽ vẽ những hình ảnh sống động lên trên mặt sản phẩm để tạo nên những sản phẩm đẹp mắt và ý nghĩa.
Mỗi màu sắc men lại thích hợp với một sản phẩm gốm khác nhau.
Nung sản phẩm
Ngày trước khi chưa có kĩ thuật cải tiến như bây giờ dân làng Bát Tràng thường dùng các loại lò chính như lò bầu, lò ếch, lò hình hộp và lò ga. Ngày nay sự phát triển của công nghệ đồng thời tiết kiệm thời gian hai loại lò được sử dụng phổ biến tại Bát Tràng là lò hình hộp và lò ga.
Để tạo được một sản phẩm vừa có chất lượng vừa đẹp mắt thì người ta sẽ nung trong lò khoảng 3 ngày 3 đêm sau đó cửa lò để nguội khoảng 2 ngày 2 đêm. Bước này rất quan trọng, đặc biệt hơn có những sản phẩm phải canh thời gian nhất định để có được thiết kế cũng như có được màu như ý.
Gốm Bát Tràng hiện nay được rất nhiều người yêu thích. KHông chỉ có chất lượng tốt kiểu dáng đẹp mà còn phong phú về chủng loại.
Có thể nói thương hiệu gốm Bát Tràng đã và đang khẳng định giá trị của mình trên trường quốc tế. Nơi đây không chỉ là một địa chỉ lưu giữ những giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc mà còn chứa đựng những giá trị tinh thần lớn lao. Giữa bộn bề cuộc sống tấp nập nhưng nơi đây vẫn là một điểm đến một chốn đi về bình yên của con người.
Thuyết minh về một quy trình hoạt động hoặc một đối tượng (mẫu 10)
Chiếc nón lá từ lâu đời đã gắn bó và trở thành một biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam theo bề dày hàng nghìn năm lịch sử. Để làm nên một chiếc nón đòi hỏi người thợ phải thật tỉ mỉ và tinh tế. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về quy trình cũng như những thông tin về chiếc nón thông qua bài văn mẫu này nhé.
Chiếc nón lá có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón lá đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lữ, thạp đồng Đào Thịch vào khoảng 2500 – 3000 năm trước công nguyên. Từ xa xưa, nón lá đã hiện diện trong đời sống hằng ngày của người và gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam. Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, chiếc nón lá và nghề chằm nón vẫn được duy trì, gắn bó và tồn tại đến ngày nay.
Ở nước ta, nón lá được làm chủ yếu bằng nghề thủ công. Để làm nên một chiếc nón hoàn chính và đẹp đẽ, người thợ phải trải qua rất nhiều công đoạn khác nhau đòi hỏi sự tỉ mỉ, cần mẫn, khéo léo. Đầu tiên, họ phải chọn ra những chiếc lá đều nhau, có chất liệu và màu sắc tương đối giống nhau. Nón được làm chủ yếu từ lá cọ, lá dừa. Người thợ phải chế biến lá thật kĩ càng để lá đạt đến một độ dẻo dai nhất định phục vụ quá trình đan lát. Sau bước chọn lá, người thợ tiến hành chọn chất liệu làm khung nón, thường khung nón được làm bằng tre, trúc. Người ta tỉ mỉ chuốt từng thanh tre, trúc thành những chiếc que rất nhỏ (to hơn chiếc tăm một chút) và có chiều dài to nhỏ khác nhau; sau đó người ta uốn cong thanh tre đấy thành vòng tròn và dùng một sợi chỉ thật chắc chắn để buộc cố định lại. Người ta lấy một thanh tre cứng hơn sau đó sắp xếp những vòng tròn từ nhỏ đến lớn thành hình chóp nón, mỗi vòng cách nhau từ 3 - 5cm để làm khung nón. Sau khi làm khung xong, người ta tiến hành đan nón. Những sợi lá dừa, lá cọ được đan khéo léo quanh chiếc khung và buộc chúng vào khung bằng sợi chỉ màu sắc. Bên trong chiếc nón thường được thiết kế để buộc chiếc quai. Quai nón là một mảnh vải làm bằng lụa, von,… có màu sắc khác nhau để cho chiếc nón thêm tươi đẹp. Bên trong nón, người ta thường khắc lên những bài thơ, những bài ca dao thơ mộng và đó cũng là tiền đề ra đời “chiếc nón bài thơ”. Phần bên ngoài người ta bọc lá dứa, lá cọ lại bằng một lớp nilong trong suốt để bảo vệ, tránh làm rách lá hoặc hư hại lá do tiếp xúc với ánh nắng mà vẫn giữ được vẻ đẹp, tính thẩm mĩ cho chiếc nón.
Ở Việt Nam có làng nghề làm nón ở Huế vô cùng nổi tiếng, thu hút nhiều khách du lịch. Những chiếc nón lá trải đi khắp nẻo đường và trở thành thân quen trong đời sống thường nhật của người phụ nữ. Chiếc nón lá không chỉ là vật dụng thiết thân, người bạn thủy chung với người lao động dùng để đội đầu che mưa, che nắng khi ra đồng, đi chợ, là chiếc quạt xua đi những giọt mồ hôi dưới nắng hè gay gắt mà còn là vật làm duyên, tăng nét nữ tính của người phụ nữ. Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện nét dịu dàng, mềm mại kín đáo của người phụ nữ Việt Nam đã nhiều lần xuất hiện và đều nhận được những tràng pháo tay tán thưởng của khán giả.
Ở Việt Nam hiện nay có nhiều loại nón khác nhau: nón quai thao, nón dấu, nón ngựa, nón thúng,…mỗi loại nón có đặc điểm và cấu tạo khác nhau nhưng cùng mang đặc điểm điểm tô cho người phụ nữ, cho cuộc đời thêm xinh đẹp hơn. Muốn nón lá được bền lâu, chúng ta nên đội khi trời nắng, tránh đi mưa. Nếu đi mưa về thì lau khô và phơi nón ở chỗ mát. Sau khi sử dụng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng sẽ khiến nón nhanh hỏng hơn đồng thời mất đi tính thẩm mĩ.
Nón lá từ lâu đã đi vào thơ ca, gắn liền với nhiều thế hệ con người Việt Nam và xuất hiện trong những dịp đặc biệt như: đám cưới,… nó trở thành một nét đẹp mà bất cứ du khách nào ghé đến Việt Nam cũng phải trầm trồ, suýt xoa. Dù cho đất nước, xã hội ngày càng phát triển thế nào thì chiếc nón vẫn luôn giữ vững giá trị tốt đẹp của nó và mãi là người bạn thân thiết của chúng ta.