
Anonymous
0
0
Sự ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt Trái Đất và hậu quả - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 12 - Chân trời sáng tạo
- asked 4 months agoVotes
0Answers
0Views
II. Tìm hiểu văn bản Sự ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt Trái Đất và hậu quả
1. Thể loại
- Tác phẩm Sự ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt Trái Đất và hậu quả thuộc thể loại: văn bản thông tin.
2. Xuất xứ
- Theo Mùa xuân vắng lặng, nhóm dịch Khánh An, NXB Thế giới, 2018, tr 63 – 70.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt chính: thuyết minh.
4. Bố cục Sự ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt Trái Đất và hậu quả
- Phần 1: Trình bày bằng chứng về sự ô nhiễm nguồn nước được thể hiện rõ ở các vùng di trú hoang dã quốc gia tại Tu-li Lây-kơ, Lâu-ơ Cla-mát, bang Ca-li-phooc-ni-a và Ấp-pơ Cla-mát Lây-kơ, nằm trên đường biên giới của bang Ô-rê-gân.
- Phần 2: Cách thức hóa chất thông qua nước len lỏi vào vòng tuần hoàn của tự nhiên để gây ra sự ô nhiễm và cái chết của loài chim lặn.
- Phần 3: Ảnh hưởng của hóa chất độc hại có trong nước đến sức khỏe con người.
5. Tóm tắt Sự ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt Trái Đất và hậu quả
Văn bản Sự ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt Trái Đất và hậu quả đem đến cho người đọc những thông tin bổ ích, đầy đủ, cái nhìn trực diện về thực trạng hiện nay về ô nhiễm nguồn nước trên Trái Đất.
6. Giá trị nội dung
- Văn bản cung cấp cho người đọc thông tin về thực trạng ô nhiễm nguồn nước trên Trái Đất, cách thức hóa chất thông qua nước len lỏi vào vòng tuần hoàn của tự nhiên để gây ra sự ô nhiễm và cái chết của loài chim lặn. Từ đó cho thấy ảnh hưởng của hóa chất độc hại có trong nước đến sức khỏe con người.
7. Giá trị nghệ thuật
- Thông tin xác đáng, chân thực.
III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Sự ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt Trái Đất và hậu quả
1. Các thông tin chính của văn bản
- Thông tin cơ bản: Khi đất và mặt nước bị nhiễm thuốc diệt sinh vật gây hại cũng như các loại hóa chất khác, có nguy cơ là không chỉ là chất độc mà cả chất gây ung thư đã được đưa vào nguồn nước công cộng.
- Các chi tiết:
+ Tiến sĩ W.C. Hiếu-pơ, Viện Ung thư Quốc gia, cảnh báo “nguy cơ mắc bệnh ung thư do việc sử dụng nước uống bị nhiễm hóa chất sẽ tăng đáng kể trong tương lai gần”.
+ Một nghiên cứu được thực hiện tại Hà Lan vào đầu những năm 1950 cũng đồng tình với quan điểm của tiến sĩ W.C. Hiếu-pơ, khi cho rằng nguồn nước bị ô nhiễm có nguy cơ gây ra bệnh ung thư. Những thành phố nhận được nguồn nước từ các con sông sẽ có tỉ lệ chết vì ung thư cao hơn nơi mà người dân nhận được nước uống từ nguồn ít bị ô nhiễm hơn như nước giếng.
+ A-xê-nít, một chất có trong môi trường và là nguyên nhân gây ra ung thư ở người, đã có mặt trong hai sự việc từng xảy ra, trong đó, những nguồn nước bị ô nhiễm là tác nhân gây ra bệnh ung thư.
2. Thái độ, quan điểm của tác giả
- Tác giả bày tỏ thái độ quan ngại khi chúng ta giải quyết một vấn đề nhỏ (tiêu diệt loài muỗi mắt) bằng một cách thức nguy hiểm là sử dụng các hóa chất độc hại, thậm chí có thể gây ung thư. Nói cách khác, giải pháp này đã gây ra những vấn đề nghiêm trọng hơn cho môi trường và sức khỏe của con người.
Sự ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt trái đất và hậu quả
(Trích mùa xuân vắng lặng)
Theo Rây – cheo Ca – son (Rachel Carson)
Và một điều chắc chắn rằng không những nước ngầm mà ngay cả nước chảy trên mặt đất như ở các khe suối, sông hay nước tưới tiêu đều đang dần bị ô nhiễm.
Bằng chứng về sự ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt Trái Đất
Bằng chứng cụ thể cho vấn đề này được thể hiện rõ ở các vùng di trú hoang dã quốc gia tại Tu-li Lây-ko (Tule Lake) và Lâu-o Cla-mát (Lower Klamath), Ca-li-phoóc-ni-a (California). Đây là một phần trong chuỗi vùng di trú bao gồm cả Ấp-po Cla-mát Lây-ko (Upper Klamath Lake), nằm trên đường biên giới của Ô-rê-gân (Oregon). Tất cả các vùng di trú này đều liên kết với nhau bởi một nguồn nước chung, và đều chịu chung ảnh hưởng vì những vùng đất này như hòn đảo nhỏ nằm trong một lòng biển bao la là những dải đất nông nghiệp rộng lớn – đất được cải tạo bằng hệ thống thoát nước và dòng chảy lệch hướng so với vùng đầm lầy và nguồn nước mở.
Vùng đất nông nghiệp xung quanh các nơi cư trú này hiện đang sử dụng nước tưới tiêu lấy từ Ấp-po Cla-mát Lây-ko. Nguồn nước, lấy từ các cánh đồng sau khi tưới tiêu, được bom vào Tu-li Lay-ko và từ đây đi đến Lâu-o Cla-mát. Mọi nguồn nước ở các vùng di trú dựa vào hai hồ nước này đều là hệ thống tháo nước của đất làm nông. Cần phải nhớ điều này khi liên hệ với những gì xảy ra gần đây.
Mùa hè năm 1960, nhân viên quản lí vùng di trú đã nhặt được hàng trăm xác chim chết và cả những con chim đang kiệt sức ở Tu-li Lây-kơ và Lâu-ơ Cla-mát. Đa số đều là loài ăn cá – diệc, bồ nông, chim lặn và mòng biển. Theo kết quả phân tích, người ta phát hiện dư lượng thuốc trừ sâu được lưu lại trong cơ thể của các loài này, ví dụ như tô-xơ-phen (toxaphene), DDD và DDE. Cá trong hồ cũng được xác định có chứa thuốc trừ sâu, và các sinh vật phù du cũng thế.
Người quản lí vùng di trú tin rằng dư lượng thuốc diệt sinh vật gây hại đã men theo dòng nước tưới trên đất nông nghiệp mà chảy đến và dần tích tụ trong nước của những vùng di trú này.
Hoá chất thông qua nước len lỏi vào vòng tuần hoàn của tự nhiên
Những biện pháp khống chế mới được hứa hẹn tiến hành vào năm 1949. Việc thực hiện đã được lên kế hoạch cẩn thận và ít ai cho rằng điều không may sẽ xảy ra. Người ta bắt đầu khảo sát hồ, xác định thể tích và pha loãng thuốc trừ sâu theo tỉ lệ một phần hoá chất ứng với 70 triệu phần nước. Việc kiểm soát muỗi mắt đã bước đầu thành công; tuy nhiên, trước năm 1954, biện pháp này lại được thực hiện một lần nữa; lần này tỉ lệ pha trộn là một phần thuốc ứng với 50 triệu phần nước. Đa số mọi người đều nghĩ rằng muỗi mắt gần như đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
Điềm báo đầu tiên xuất hiện vào những tháng mùa đông sau đó, một sự sống khác bị đe doạ: loài chim lặn phía tây sống trên hồ bắt đầu chết dần, chẳng mấy chốc số lượng chim chết lên đến hơn trăm con. Chim lặn phía tây ở Hồ Cli-a sinh sản và di trú vào mùa đông, chúng bị thu hút bởi vô số loài cá khác nhau trong hồ.
Đây là loài chim rất đẹp và có tập quán thú vị là xây tổ nổi trên những hồ cạn phía tây Hoa Kỳ và Ca-na-đa (Canada). Người ta còn gọi loài chim này là “chim lặn thiên nga”, bởi vì chúng có thể lượn qua và tạo thành một gọn sóng lăn tăn trên mặt hồ; cổ chim nhỏ, màu trắng, cái đầu màu đen sáng lúc nào cũng ngẩng cao. Những chú chim non mới nở được khoác lên mình lớp áo bằng lông to xám mịn; chỉ trong vài giờ sau đó chúng đã có thể tự uống nước và cưỡi lên lưng bố mẹ, rúc mình dưới đôi cánh chim bố mẹ.
Nhiều khám phá lạ hơn đã được tìm ra sau đó. Không ai tìm được vết tích của thuốc DDD trong nước trong một thời gian ngắn sau khi phun thuốc. Thực tế chất độc này không lưu lại trong hồ mà nó ăn sâu vào lớp cấu trúc của các sinh vật đang được nuôi dưỡng trong hồ. Hai mươi ba tháng sau khi quá trình xử lí bằng hoá chất này ngưng lại, loài phù du vẫn còn mang trên mình 5,3 phần triệu chất độc. Trong khoảng thời gian gần hai năm đó, bao nhiêu phù du đã sinh ra rồi chết đi nhưng chất độc vẫn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác dù nó không còn tồn tại trong nước hồ. Nó tồn tại nhờ vào sự sống của những sinh vật trong hồ. Một năm sau khi ngưng sử dụng hoá chất, cá, chim và ếch đều được mang đi thử nghiệm, chúng vẫn còn có thuốc DDD trong mình. Lượng thuốc tìm thấy trong cơ thể những loài vật này luôn cao hơn rất nhiều lần nồng độ ban đầu khi chúng được đưa vào nước để tiêu diệt loài muỗi mắt. Những con vật mang chất độc như những con cá nở ra chín tháng sau đợt sử dụng thuốc DDD cuối cùng, những con chim lặn và mòng biển Ca-li-phoóc-ni-a đã tích luỹ thuốc với nồng độ hơn 2000 phần triệu. Trong khi đó, số lượng đàn chim lặn đang làm tổ đã dần suy giảm – từ hơn 1 000 cặp trước khi phun thuốc trừ sâu lần đầu tiên, đã giảm xuống còn khoảng 30 cặp vào năm 1960. Ngay cả 30 cặp chim này dường như cũng chỉ làm tổ vô ích, vì không ai nhìn thấy chú chim lặn con nào xuất hiện trên hồ kể từ lần phun thuốc DDD cuối cùng.
Một lần nữa, chúng ta nên nhớ rằng trong tự nhiên mọi thứ đều không tồn tại riêng lẻ. Thế nên, để có thể hiểu rõ sự ô nhiễm trên Trái Đất đang diễn ra như thế nào, chúng ta cần xem xét một nguồn tài nguyên cơ bản khác nữa, đó là đất.
[…]
(Theo Mùa xuân vắng lặng, nhóm dịch Khánh An, NXB Thế giới, 2018, tr. 63 –70)