
Anonymous
0
0
SBT Ngữ văn 10 Nguyễn Trãi - Cuộc đời và Sự nghiệp - Cánh diều
- asked 4 months agoVotes
0Answers
0Views
Giải SBT Ngữ văn 10 Nguyễn Trãi - Cuộc đời và Sự nghiệp - Cánh diều
Câu 1 trang 3 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Bài viết Nguyễn Trãi - Cuộc đời và sự nghiệp thuộc kiểu văn bản nào sau đây?
A. Văn bản nghị luận xã hội
B. Văn bản nghị luận văn học
C. Văn bản nhật dụng
D. Văn bản thông tin
Trả lời:
Chọn đáp án: D. Văn bản thông tin
Câu 2 trang 3 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Dựa vào bài viết Nguyễn Trãi - Cuộc đời và sự nghiệp kết hợp với những hiểu biết về lịch sử, em hãy trình bày những nét cơ bản về bối cảnh lịch sử, văn hoá thời đại Nguyễn Trãi.
Trả lời:
a) Trước và trong khởi nghĩa Lam Sơn
- Nhà Trần suy yếu, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần và tiến hành xây dựng lại thể chế, nhà nước.
- Nhà Minh xâm lược và thống trị Đại Việt, thực hiện chế độ đàn áp, bóc lột dã man, hòng huỷ hoại triệt để nền văn hoá Đại Việt.
- Các cuộc khởi nghĩa chống quân Minh đều thất bại.
- Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, đánh đuổi quân Minh, giành lại độc lập, tự do cho đất nước.
b) Sau khởi nghĩa Lam Sơn
- Yêu cầu xây dựng một chính quyền vững mạnh, một quốc gia hùng cường. Xây dựng một nền văn hoá dân tộc độc lập, từng bước khôi phục lại bộ phận văn hoá truyền thống đã bị kẻ thù xâm lược huỷ hoại, tiếp thu tinh hoa của văn hoá khu vực. Trong đó, việc xây dựng nền móng cho một nền văn học mới là rất quan trọng.
Câu 3 trang 3 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: (Câu hỏi 3, SGK(*)) Dựa trên cơ sở nào để bài viết khẳng định: “Nguyễn Trãi là nhà văn hoá, nhà văn kiệt xuất”?
(*) SGK: viết tắt từ sách giáo khoa.
Trả lời:
- Những cơ sở để khẳng định: “Nguyễn Trãi là nhà văn hóa, nhà văn kiệt xuất”:
Câu 4 trang 3 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi có mối liên hệ như thế nào?
Trả lời:
Giữa cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi có mối liên hệ hết sức mật thiết:
- Cuộc đời ông luôn gắn bó với vận mệnh của dân tộc. Thời kì tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, thơ văn Nguyễn Trãi luôn là vũ khí lợi hại góp phần quan trọng vào chiến thắng của dân tộc trước quân Minh xâm lược, với khát vọng giải phóng dân tộc, với mong muốn đem lại nền hoà bình cho cả hai dân tộc Việt - Trung.
Các tác phẩm của ông đã phản ánh kịp thời và từng bước cuộc kháng chiến oai
Câu 5 trang 3 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: (Câu hỏi 4, SGK) Nội dung chính của thơ văn Nguyễn Trãi được trình bày trong bài viết bao gồm những điểm gì? Qua thơ văn, Nguyễn Trãi hiện lên là một con người như thế nào?
Trả lời:
- Thơ văn Nguyễn Trãi thấm nhuần tư tưởng yêu nước, nhân nghĩa vì dân, đề cao vai trò của người dân, cùng với niềm suy tư thế sự và tình yêu thiên nhiên, đất nước. Đó là một con người luôn gắn yêu nước với thương dân, biết ơn người dân.
- Thơ văn Nguyễn Trãi phản ánh bức chân dung con người Nguyễn Trãi với vẻ đẹp của sự kết hợp hài hoà giữa một vĩ nhân và một con người hết sức đời thường.
+ Một người con hiếu thảo, một người bạn chân tình.
+ Một người gắn bó với quê hương, đất nước. Ông sống hết mình với lợi ích của dân tộc cả trong cuộc kháng chiến chống quân Minh và trong thời bình khi nhiệm vụ xây dựng đất nước được đặt ra cấp thiết.
+ Luôn nâng niu, giữ gìn vẻ đẹp của thiên nhiên, yêu thiên nhiên, sống chan hoà cùng tạo vật.
- Nguyễn Trãi yêu tình yêu của con người và cũng đau nỗi đau của con người. Thơ ông chứa đựng nhiều chiêm nghiệm về thói đen bạc của lòng người.
Câu 6 trang 3 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: (Câu hỏi 5, SGK) Những đóng góp to lớn nào về mặt nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Trãi được nêu lên trong văn bản Nguyễn Trãi - Cuộc đời và sự nghiệp?
Trả lời:
- Thơ văn Nguyễn Trãi là sự kết tinh nghệ thuật của nhiều thế kỉ văn học Việt Nam. Ông có công lớn trong việc hoàn thiện, phát triển, khởi đầu nhiều thể loại văn học.
- Ông là một nhà văn chính luận xuất sắc, đưa thể văn nghị luận ở giai đoạn này đạt đến độ hoàn thiện.
- Với thể phú, ngòi bút của Nguyễn Trãi cũng đã đạt được những thành công lớn.
- Về thơ, Nguyễn Trãi là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Với Ức Trai thi tập, ông đã đưa thơ chữ Hán của Việt Nam đạt đến độ nhuần nhị, tạo ra một thế giới thẩm mĩ phong phú, vừa trí tuệ, hào hùng, lại vừa trữ tình, lãng mạn.
- Đặc biệt, với tập thơ chữ Nôm Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã khẳng định tiếng Việt là một ngôn ngữ văn học có khả năng phản ánh sâu sắc thế giới nội tâm của con người, cũng như phản ánh chân thực đời sống xã hội.
+ Ông đem lại cho thơ Nôm một hệ thống thẩm mĩ mới, đưa vào thơ tục ngữ, ngôn ngữ và hình ảnh đời thường. Trong Quốc âm thi tập có tới 186 bài được viết theo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, cho thấy nhà thơ rất có ý thức trong việc sáng tạo một “lối thơ riêng của Việt Nam”.
Câu 7 trang 3 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Em suy nghĩ gì về nhận xét: “Ngày nay, cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi vẫn là những bài học hết sức giá trị.”? Hãy nêu lên một số bài học mà em thấy tâm đắc.
Trả lời:
Câu 8 trang 3 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc
(Trích)
Nguyễn Trãi, người anh hùng của đân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị:
Nhớ Nguyễn Trãi, chúng ta nhớ người anh hùng cứu nước, người cùng Lê Lợi
làm nên sự nghiệp “bình Ngô”, người thảo Đại cáo bình Ngô. Nguyễn Trãi là một người yêu nước, yêu nước sâu sắc, mạnh mẽ, thiết tha, với tâm hồn và khí phách của người anh hùng. Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, cuối cùng, chẳng qua là lòng yêu nước thương dân: cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân.
Nguyễn Trãi suốt đời mang một hoài bão lớn: làm gì cho dân, người dân lầm
than khổ cực. Bắt đầu Đại cáo bình Ngô có câu: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.
Đại cáo bình Ngô là khúc ca hùng tráng bất hủ của dân tộc ta. Hãy nghe Nguyễn Trãi lên án giặc ngoại xâm:
- Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội(2),
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
- Ngắm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Và đây là mấy câu diễn tả thế thắng của quân ta:
- Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
- Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,
Thân vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh(3).
Rồi đến đoạn cuối, lúc dẹp xong giặc ngoại xâm:
Xã tắc(4) từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Muôn thuở nên thái bình vững chắc,
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu.
Những bức thư gửi tướng tá giặc trong Quân trung từ mệnh tập mà Phan Huy Chú cho là “có sức mạnh như mười vạn quân” là mẫu mực của tài hùng biện. Hãy nghe Nguyễn Trãi kể tội Phương Chính:
Phải nói rõ rằng Nguyễn Trãi, một mặt vạch tội ác quân xâm lược và kiênquyết đánh chúng, mặt khác luôn luôn cố gắng hết sức mình để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh cứu nước một cách đỡ tổn thất nhất, đồng thời sớm khôi phục bang
giao bình thường với Trung Quốc nhà Minh. Trong một bức thư gửi Vương Thông,
“Nếu muốn kéo quân về nước, thì cầu đường sửa sang, thuyền ghe sắm đủ, thuỷ bộ hai đường, tuỳ theo ý muốn, đưa quân ra khỏi cõi, yên ổn muôn phần.”.
Nguyễn Trãi quả thật là một nhà chính trị có tầm mắt cao xa, rộng lớn, đồng thời là một nhà ngoại giao khôn khéo.
Về thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta nên quý trọng hơn nữa thơ chữ Nôm, tiếng
ta của Nguyễn Trãi, đó là vốn quý của văn học dân tộc. Bình luận về thơ, tưởng không bằng đọc một vài câu thơ:
Nước biếc non xanh, thuyền gối bãi
Thơ của Nguyễn Trãi hay là như vậy! Vườn văn học của nước nhà có những
hoa quả đẹp và thơm ngon, thế mà chúng ta hình như chưa thấy hết giá trị. Tiếng
nói của chúng ta có cái giàu và đẹp, phải biết yêu quý, sử dụng, trau dồi, vì sao lại
phải đi mượn ở đâu đâu?
Thơ của Nguyễn Trãi là tâm hồn của Nguyễn Trãi, trong sáng và đầy sức sống. Có người nói thơ của Nguyễn Trãi buồn vì cảnh đời của ông buồn. Thơ của Nguyễn Trãi có bài buồn, có câu buồn, vì lẽ gì chúng ta đều biết, nhưng cả tập thơ của Ức Trai là thơ của một người yêu đời, yêu người, tâm hồn của Nguyễn Trãi sống một nhịp với non sông đất nước tươi vui.
Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn của Nguyễn Trãi, đã ca ngợi ông như sau:
Kỉ niệm Nguyễn Trãi là nhớ Nguyễn Trãi, nhắc Nguyễn Trãi, làm quen với
Nguyễn Trãi hơn nữa: người làm chính trị, người làm quân sự, người nghiên cứu lịch sử nước nhà, người làm văn, làm thơ đều nên hiểu biết, học hỏi Nguyễn Trãi hơn nữa.’’
(Phạm Văn Đồng, báo Nhân Dân, ngày 19-9-1962)
(1) Kinh bang tế thế: trông coi việc nước; cứu giúp người đời.
(2) Người xưa thường dùng thẻ trúc để ghi chép; Nam Sơn (Trung Quốc): nơi có rừng trúc. Câu thơ ý nói tội ác của giặc nhiều không thể ghi chép hết.
(3) Thần vũ chẳng giết hại: ý nói uy vũ thần thánh thiêng liêng có sức mạnh chiến thắng mà không cần phải sát hại kẻ thù. Hiếu sinh: quý trọng sinh mạng con người.
(4) Xã tắc: nơi tế thần đất gọi là xã, nơi tế thần lúa gọi là tắc. Nghĩa bóng chỉ đất nước, bờ cõi.
a) Hãy xác định kiểu văn bản của bài viết Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc:
A. Văn bản nhật dụng
B. Văn bản nghị luận
C. Văn bản thông tin
D. Sự kết hợp của ba phương án trên
b) Em hãy cho biết mục đích của tác giả khi viết văn bản trên. Chỉ ra sự phù hợp giữa nhan đề và nội dung của bài viết.
c) Em hãy nêu bố cục của bài viết và cho biết ý chính của mỗi phần trong văn bản.
d) Xác định quan điểm (luận đề), các luận điểm, lí lẽ và bằng chứng mà tác giả đã nêu lên trong bài nghị luận trên. Phân tích và làm rõ mối quan hệ của các yếu tố đó.
e) Hãy chỉ ra những biểu hiện cụ thể và phân tích tác dụng của yếu tố biểu cảm trong bài nghị luận. Qua đó, làm rõ thái độ, tình cảm của tác giả đối với danh nhân Nguyễn Trãi.
Trả lời:
a) Chọn đáp án: B. Văn bản nghị luận
b)- Tác giả Phạm Văn Đồng, với tư cách là Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, năm 1962 nhân Kỉ niệm 520 năm ngày mất của Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi (1380 - 1442) đã viết bài ca ngợi con người, sự nghiệp cứu nước, sự nghiệp văn hoá, văn học trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của Nguyễn Trãi.
- Đây là giai đoạn cả nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược và xây dựng chế độ mới ở miền Bắc nên bài viết có ý nghĩa quan trọng:
+ Khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm giành độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
+ Khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của dân tộc ta trước nhân dân và các lực lượng yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kêu gọi sự ủng hộ của họ, phản bác lại sự xuyên tạc của kẻ thù về mục đích cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam.
+ Khẳng định truyền thống chống giặc ngoại xâm và niềm tin vào chiến thắng của dân tộc.
Bài viết có giá trị đối nội và ngoại giao quan trọng trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ. Đây cũng là bước đầu chuẩn bị cho việc Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) tôn vinh Nguyễn Trãi là Anh hùng | dân tộc - Danh nhân văn hoá nhân Kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông (1980).
+ Nhan đề của bài viết rất phù hợp với nội dung được trình bày trong bài và cũng chính là luận đề được nhắc lại ở ngay câu mở đầu của bài nghị luận.
c) Bố cục của bài nghị luận gồm bốn phần theo thứ tự đã được đánh số trong văn bản.
1) Phần mở đầu: Nêu và giải thích luận đề.
2) Nguyễn Trãi - Người anh hùng cứu nước, thương dân và bị kịch của ông.
3) Sự nghiệp văn học yêu nước và xây dựng nền văn hoá dân tộc của Nguyễn Trãi.
4) Phần kết luận: Tự hào về Nguyễn Trãi, học tập tấm gương danh nhân.
d) - Luận đề được nêu lên ở ngay câu đầu của bài viết. Đây cũng là quan điểm được khẳng định trong cả bài nghị luận.
- Ở phần 2 và 3 của bài viết, tác giả triển khai cụ thể các vấn đề được nêu lên trong luận đề. Luận điểm của phần 2 và 3 cũng được nêu lên ở ngay câu đầu các phần. Các luận điểm ở phần 2 và 3 đều là sự triển khai một cách cụ thể luận đề của bài viết.
- Các lí lẽ và bằng chứng được đề cập đến trong bốn phần của bài viết đều gắn bó với luận đề và các luận điểm được nêu trong cả bài nghị luận, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chúng đều có mục đích làm rõ luận đề, tạo thành một hệ thống và chỉnh thể thống nhất trong toàn bài.
e) Các câu biểu cảm trong bài sẽ giúp cho lập luận trở nên giàu sức thuyết phục hơn, bớt khô khan hơn và thể hiện một cách trực tiếp thái độ, tình cảm của tác giả.
Qua các lập luận và các câu biểu cảm, tác giả đã thể hiện sự khâm phục, ca ngợi, tự hào và cảm thông với số phận bi kịch của Nguyễn Trãi.