
Anonymous
0
0
Nguyễn Du - Cuộc đời và sự nghiệp - Tác giả tác phẩm Ngữ văn 11 - Cánh diều
- asked 4 months agoVotes
0Answers
0Views
Tác giả tác phẩm: Nguyễn Du - Cuộc đời và sự nghiệp - Ngữ văn 11
Bài giảng Ngữ văn 11 Nguyễn Du - Cuộc đời và sự nghiệp - Cánh diều
I. Tìm hiểu tác phẩm Nguyễn Du - Cuộc đời và sự nghiệp
1. Thể loại
- Văn bản thuộc thể loại: văn bản thông tin.
2. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: nghị luận.
3. Bố cục văn bản Nguyễn Du – Cuộc đời và sự nghiệp
- Phần 1: Cuộc đời từng trải và vốn sống phong phú của Nguyễn Du.
- Phần 2: Sự nghiệp văn học của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
4. Giá trị nội dung
- Ngợi ca những công lao to lớn cùng đóng góp của Nguyễn Du với dân tộc.
II. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Nguyễn Du - Cuộc đời và sự nghiệp
1. Cuộc đời từng trải và vốn sống phong phú của Nguyễn Du.
- Những điểm nổi bật về thời đại, gia đình, cuộc đời Nguyễn Du có ảnh hưởng tới sáng tác của ông:
+ Gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn hóa, văn học: cha là Nguyễn Nhiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng; anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản từng làm quan to dưới triều Lê - Trịnh.
+ Thời đại: cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn.
+ Cuộc đời đầy thăng trầm: khi trong cảnh “màn lan trướng huệ”, kẻ phiêu bạt trong cảnh “mười năm gió bụi”, khi là người ẩn cư tại quê nhà, làm quan cho triều đình nhà Nguyễn, làm chánh sứ sang Trung Quốc. Bởi vậy, ông đi nhiều, tiếp xúc nhiều.
2. Sự nghiệp văn học của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du
- Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm:
+ Tác phẩm chữ Hán (3 tập thơ với 250 bài): Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục.
+ Tác phẩm chữ Nôm: Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh.
- Bài viết khẳng định thơ chữ Hán Nguyễn Du “là bức chân dung tự họa về một con người có tấm lòng nhân đạo bao la, sâu sắc”: Ông cảm nhận bản thân mình cũng là một người cùng cảnh ngộ với những số phận tài năng mà bi kịch. Bởi vậy, ông đặt vị trí của mình vào họ để thấu hiểu, cảm thông, thể hiện lòng thương người, thương cho những số phận đau khổ, bất hạnh với niềm cảm thương sâu sắc và cũng tự thương cho chính bản thân mình khi dựng nghiệp, khi cô đơn, không tri âm tri kỉ giữa cuộc đời.
- Giá trị nhân đạo của Truyện Kiều thể hiện ở những mặt: Truyện là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo với tầng lớp quan lại gian ác, những kẻ lưu manh, vô lại bất nhân, sự khuynh đảo của thế lực đồng tiền,..Trong xã hội ấy, những người lương thiện, những thân phận nhỏ bé bị chà đạp, dập vùi. Đồng thời, ông thể hiện tiếng nói đồng cảm với bi kịch, đồng tình với những khát vọng chân chính của con người, được thể hiện qua nhân vật Thúy Kiều. Ở đời Kiều có hai bi kịch lớn hết sức đau đớn: bi kịch tình yêu và bi kịch nhân phẩm.
- Những thành công về mặt nghệ thuật của kiệt tác Truyện Kiều được trình bày trong bài Nguyễn Du – Cuộc đời và sự nghiệp:
+ Sử dụng ngôn ngữ kể chuyện (ngôn ngữ gián tiếp, ngôn ngữ trực tiếp).
+ Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật: được khắc họa bằng cả bút pháp ước lệ và bút pháp tả thực, bằng cả con người với biểu hiện bên ngoài và con người với đời sống nội tâm. Miêu tả nội tâm nhân vật là một thành công nghệ thuật lớn, mang ý nghĩa cách tân của kiệt tác Truyện Kiều.
+ Thiên nhiên trong truyện vừa là đối tượng thẩm mĩ, vừa là phương thức thể hiện tâm trạng của nhân vật với nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình”.
+ Truyện Kiều được viết theo thể lúc bát vừa dân dã, bình dị như ca dao, dân ca, vừa trau chuốt nghệ thuật, đạt tới giá trị cổ điển – giá trị khuôn thước, mẫu mực.
+ Ngoài ra, truyện có sự kết hợp giữa ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ văn học dân gian với ngôn ngữ bác học kết tinh từ sách vở. Bởi vậy, kiệt tác Truyện Kiều có ngôn ngữ vẫn được sử dụng trong đời sống hiện đại, ở mọi hoàn cảnh giao tiếp và tầng lớp khác nhau.
IV. Đọc tác phẩm Nguyễn Du - Cuộc đời và sự nghiệp
I. Cuộc đời từng trải với vốn sống phong phú
Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh ra ở Thăng Long. Gia đình, dòng họ Nguyễn Du vừa có truyền thống khoa bảng, đỗ đạt làm quan vừa có truyền thống văn hoá, văn học. Họ Nguyễn ở Tiên Điển là dòng họ có danh vọng lớn đương thời, nhiều người thành đạt trên con đường khoa bảng và công danh. Cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), đỗ Tiến sĩ, làm quan to trong triều, từng giữ chức Tham tụng (tên gọi chức Tể tưởng thời Lê Trung hưng), từng giữ chức quan Tế tửu đứng đầu Quốc Tử Giám, là nhà sử học, nhà thơ. Mẹ ông tên Trần Thị Tần, là vợ thứ, người Bắc Ninh, có tài hát xưởng. Anh cùng cha khác mẹ của ông là Nguyễn Khán, đỗ Tiến sĩ, từng giữ chức Bồi tụng (tương đương Tể tưởng nhưng làm việc bên phủ chúa), giỏi văn chương Nôm, say mê sáng tác âm nhạc, được nhiều người truyền tụng. Có thể thấy, truyền thống gia đình là môi trường hết sức thuận lợi để phát triển nhân cách và tài năng của Nguyễn Du.
Hoàn cảnh lịch sử, xã hội với những biến đổi “kinh thiên động địa” đã tác động mạnh mẽ tới cuộc đời, con người, sự nghiệp Nguyễn Du. Thời đại Nguyễn Du là thời đại có những biến cố lịch sử to lớn “một phen thay đổi sơn hà”. Đây là giai đoạn cuối của nhà Lê, giai đoạn sụp đổ của triều đinh vua Lê – chúa Trịnh. Đây là thời kì bão táp của phong trào nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Chiến công của người anh hùng “áo vải cờ đào” Nguyễn Huệ lật đổ vua Lê — chúa Trịnh ở Đàng Ngoài”, chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đồng thời phá quân Xiêm xâm lược ở phương Nam, diệt quân Thanh xâm lược ở phương Bắc đã thu giang sơn về một mối và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Tuy nhiên, triều đại Tây Sơn quá ngắn ngủi, triều Nguyễn được vua Gia Long (Nguyễn Ánh) thiết lập và tiếp đến là công cuộc hưng thịnh trở lại của vương triều Nguyễn.
Nguyễn Du không chỉ là nhân chứng của thời đại mà còn sống gắn bó sâu sắc với những biến cố lớn lao của thời đại. Điều này đã góp phần đem đến một cuộc đời. từng trải và vốn sống phong phú của đại thi hảo dân tộc.
Nguyễn Du đã sống một cuộc đời đầy thăng trầm: khi trong cảnh "màn lan trưởng huệ" của cậu công tử gia đình đại quý tộc, lúc là kẻ phiêu bạt trong cảnh “mười năm gió bụi” lánh nạn Tây Sơn; khi là người ẩn cư tại quê nhà, lúc làm quan cho triều đinh nhà Nguyễn, từng được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc. Đi nhiều, tiếp xúc nhiều cũng là đặc điểm nổi bật ở cuộc đời đại thi hào.
II. Đại thi hào dân tộc
1. Nguyễn Du – nhà nhân đạo chủ nghĩa
Do vậy, từ lòng thương người, Nguyễn Du trở về với niềm tự thương. Ông tự thương minh khi “Dựng nghiệp, mưu sinh luống lỡ làng”, khi cô đơn, không trị âm trí kì giữa cuộc đời, giữa thời gian vô định: “Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/ Người đời ai khóc Tố Như chăng?". Tự thương cũng là tự ý thức về cá nhân. Niềm tự thương là một nét mới trong tỉnh thần nhân đạo của Nguyễn Du.
Nội dung nhân đạo trong Văn tế thập loại chúng sinh thống nhất với nội dung nhân đạo trong Truyện Kiều. Ở bài văn tế này, Nguyễn Du khóc thương cho những loại người trong xã hội. Những giọt nước mắt xót xa nhất là dành cho người phụ nữ ("Đau đớn thay phận đàn bà"), dành cho trẻ em (“Kia những đứa tiểu nhi tắm bé"), người lao động ("Đòn gánh tre chín rạn hai vai"). Chính vì vậy mà nhận định của Mộng Liên Đường chủ nhân về Truyện Kiểu cũng dùng với Văn tế thập loại chủng sinh: “Lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thẩm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột.” (Bài Tựa về Truyện Kiều).
2. Nguyễn Du — thiên tài nghệ thuật
Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương tuyệt tác, phần lớn được viết theo thể Đường luật với đủ các tiểu loại: nếu xét về số câu trong bài thì có tứ tuyệt (tuyệt cú), bát cú, trường thiên; nếu xét về số chữ trong câu thì có ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn. Bút pháp nghệ thuật phong phú, đa dạng: trữ tỉnh, tự sự, hiện thực, trào phúng. Tính chất hảm súc, cô đọng, "ý tại ngôn ngoại" (ý ở ngoài lời), nghệ thuật đối,.. vốn là đặc điểm, thể mạnh của thơ Đường luật được nhà thơ phát huy ở mức cao nhất. Chất trữ tỉnh quyện hoả chất triết lí đem đến sự thâm trầm, sâu sắc của thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Truyện Kiều có nguồn gốc tiếp thu từ cuốn tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc). Tuy nhiên, để làm nên kiệt tác số một trong văn học Việt Nam, phần sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn, rất quan trọng.
Cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Du khi viết Truyện Kiểu là nỗi đau đứt ruột từ "những điều trông thấy”, như chinh tên của tác phẩm là Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột). Nguyễn Du đã chuyển thể loại từ tiểu thuyết chương hồi sang truyện thơ Nôm, do vậy đã kết hợp được thế mạnh của cả tự sự (yếu tố truyện) và trữ tình (yếu tố thơ). Điểm nhìn trần thuật của tác giả cũng có sự thay đổi, từ người đứng ngoài câu chuyện thành người trong cuộc. Trong các hình thức ngôn ngữ kể chuyện (ngôn ngữ gián tiếp, ngôn ngữ trực tiếp). Nguyễn Du đặc biệt thành công với ngôn ngữ nửa trực tiếp. Cốt truyện của Truyện Kiều giống nhiều truyện Nôm với ba phần Gặp gỡ – Thử thách – Đoàn tự nhưng đồng thời có những sáng tạo mới khi tác giả đã tạo nên một kết thúc về hình thức là có hậu nhưng bản chất là bị kịch. Nghệ thuật xây dựng nhân vật là một thành tựu lớn của kiệt tác Truyện Kiều. Có những nhân vật, phân theo loại tốt – xấu, thiện – ác, giống kiểu nhân vật của truyện cổ tích, nhưng cũng có nhân vật không thể phân theo loại, khi tốt – xấu đan xen. Các nhân vật trong Truyện Kiều là những nhân vật tính cách, hơn nữa tính cách có sự thay đổi bởi tác động của hoàn cảnh như nhân vật Thuý Kiều. Tính cách nhân vật được khắc hoạ bằng cả bút pháp ước lệ và bút pháp tả thực, bằng cả con người với biểu hiện bên ngoài và con người với đời sống nội tâm. Miêu tả nội tâm nhân vật là một thành công nghệ thuật lớn, mang ý nghĩa cách tân của kiệt tác Truyện Kiều. Thiên nhiên trong Truyện Kiều vừa là đối tượng thẩm mĩ, vừa là phương thức thể hiện tâm trạng của nhân vật với nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình”.
Câu thơ lục bát trong Truyện Kiểu vừa dân dã, bình dị như ca dao, dân ca, vừa trau chuốt nghệ thuật, đạt tới giá trị cổ điển – giá trị khuôn thước, mẫu mực. Tiếng Việt trong Truyện Kiều rất giàu, rất đẹp, có sự kết hợp giữa ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ văn học dân gian với ngôn ngữ bác học kết tinh từ sách vở. Kiệt tác Truyện Kiều thuộc số không nhiều tác phẩm của quả khứ mà ngôn ngữ vẫn được sử dụng trong đời sống hiện đại, ở mọi hoàn cảnh giao tiếp, ở mọi tầng lớp khác nhau. Những đóng góp của Nguyễn Du không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với văn hoá, văn học Việt Nam mà còn mang tầm vóc quốc tế. Năm 1965, Hội đồng Hoà bình Thế giới tổ chức kỉ niệm 200 năm ngày sinh Danh nhân văn hoá – nhà thơ Nguyễn Du. Năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO) chọn Nguyễn Du là nhân vật văn hoá do thế giới vinh danh và năm 2015, toàn thếgiới kỉ niệm 250 năm ngày sinh của đại thi hào.
V. Sơ đồ tư duy Nguyễn Du - Cuộc đời và sự nghiệp
đang cập nhật