
Anonymous
0
0
Giải KTPL 11 trang 96 Chân trời sáng tạo
- asked 4 months agoVotes
0Answers
0Views
Giải KTPL 11 trang 96 Chân trời sáng tạo
Luyện tập 3 trang 96 KTPL 11: Em hãy đọc trường hợp sau và trả lời câu hỏi
Trường hợp. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm X, chị A xung phong nhận công tác tại vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Biết được việc này, gia đình của chị A đã khuyên chị không nên chọn đi đến những nơi khó khăn như vậy mà nên ở lại thành phố để làm việc. Tuy nhiên, chị A vẫn kiên định với lựa chọn của mình. Chị muốn góp một phần công sức bé nhỏ để phát triển văn hoá, giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Câu hỏi:
- Việc làm của chị A có phù hợp với quy định của pháp luật về quyền bình đẳng giữa các dân tộc không? Vì sao?
Lời giải:
Hành động của chị A xung phong nhận công tác tại vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống là phù hợp với quy định pháp luật về quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Hành động này cần được biểu dương vì góp phần tạo nên sự chuyển biến về văn hoá, giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số, rút ngắn sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền.
Luyện tập 3 trang 96 KTPL 11: Em có thể làm gì để góp phần bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo?
Lời giải:
Những việc HS phổ thông có thể làm để góp phần bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo:
+ Hiểu đúng về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo.
+ Tuyên truyền cho gia đình, người thân, bạn bè và cộng đồng về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo.
+ Biết phê phán những hành vi vi phạm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo trong cuộc sống.
Luyện tập 4 trang 96 KTPL 11: Em hãy đánh giá hành vi của các nhân vật trong trường hợp sau:
Trường hợp. Anh A và chị B quen nhau được một thời gian và hai người quyết định tiến đến hôn nhân. Tuy nhiên, gia đình anh A phản đối vì cho rằng chị B không cùng tôn giáo. Gia đình còn yêu cầu anh A phải tìm người phù hợp để kết hôn. Biết được thông tin, cán bộ xã nơi anh A sinh sống đã tiếp xúc và giải thích cho gia đình anh về vấn đề bình đẳng giữa các tôn giáo, không được cản trở hôn nhân tiến bộ. Sau khi được giải thích, gia đình anh A đã hiểu và đồng ý cho hai anh chị kết hôn.
Lời giải:
- Hành vi của gia đình anh A phản đối việc kết hôn vì không cùng tôn giáo là hành vi vi phạm quyền bình đẳng giữa các tôn giáo vì hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
- Hành vi của cán bộ xã thể hiện việc thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo trong việc tuyên truyền để người dân hiểu được bản chất, nội dung của các quyền này.
Vận dụng
Vận dụng 1 trang 96 KTPL 11: Em hãy cùng các bạn thảo luận nhóm về thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo ở địa phương em và chia sẻ trước lớp.
Lời giải:
(*) Bài thuyết trình tham khảo:Bảo đảm quyền học tập của người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên - Cơ sở quan trọng để thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc
Tây Nguyên có diện tích tự nhiên 54.638,4 km2 (chiếm 16,8% diện tích cả nước). Tính đến ngày 1-4-2019, dân số Tây Nguyên có 5.842.681 triệu người (chiếm 6,1% dân số cả nước) với 47/54 dân tộc sinh sống tại 5 tỉnh: Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng, trong đó dân tộc thiểu số (DTTS) có 2.199.955 triệu người (chiếm 37,7%). Địa bàn Tây Nguyên nằm có địa hình hiểm trở, mạng lưới sông suối dày, giao thông đi lại khó khăn, dân cư phân bố không tập trung, nên đời sống và việc học tập của người DTTS ở Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn, được xem là một trong những nhóm dễ bị tổn thương, đặt ra yêu cầu quyền học tập của họ cần được quan tâm đặc biệt.
1. Thực trạng việc bảo đảm quyền học tập của người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay
Những kết quả đạt được
Các chủ trương, chính sách phát triển giáo dục dân tộc đã được các địa phương ở Tây Nguyên tổ chức triển khai thực hiện khá nghiêm túc, kịp thời; vì vậy, thời gian qua mặc dù còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng sự nghiệp giáo dục dân tộc Tây Nguyên đã thu được nhiều kết quả quan trọng, quyền học tập của người DTTS ngày càng được đảm bảo, cụ thể như:
Trong vùng DTTS, nhận thức về giáo dục ngày càng chuyển biến rõ nét. Với phương châm có dân sinh là có trường lớp, đến nay phần lớn các thôn, buôn, làng, các xã ở các tỉnh Tây Nguyên đều có nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường tiểu học, trung học cơ sở thu hút ngày càng đông các cháu trong độ tuổi đến trường. Phần lớn các trường học ở vùng đồng bào DTTS tại chỗ đều được xây dựng kiên cố, bán kiên cố, không còn tranh tre, nứa lá, số trường tiểu học tổ chức học 2 buổi/ngày ngày càng tăng lên. Riêng về hệ thống các trường PTDTNT vùng Tây Nguyên những năm gần đây đang từng bước được đầu tư xây dựng ngày càng khang trang và không ngừng củng cố, mở rộng, phát triển về quy mô phục vụ yêu cầu dạy và học cho học sinh DTTS. Giai đoạn 2011-2017, các địa phương trong vùng đã chủ động quy hoạch mạng lưới trường PTDTNT nhằm đáp ứng nhu cầu tạo nguồn đào tạo nhân lực người DTTS, đã phủ kín trường PTDTNT đối với các huyện có từ 10 nghìn người DTTS trở lên. Năm học 2016-2017, vùng Tây nguyên có 59 trường PTDTNT (tăng 15 trường so với năm học 2011-2012), trong đó 6 trường cấp tỉnh và 53 trường cấp huyện. Tổng số học sinh PTDTNT vùng Tây Nguyên năm học 2016-2017 là 14.454 học sinh (trong đó cấp tỉnh là 3.249 học sinh và cấp huyện là 11.205 học sinh). Tỷ lệ học sinh học trường PTDTNT so với học sinh DTTS cấp trung học của vùng là 7,23% (tăng 0,57% so với năm học 2010-2011).
Để tạo điều kiện thuận lợi cho con em đồng bào DTTS ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa đến trường, các tỉnh Tây Nguyên cũng chú trọng phát triển về quy mô, mạng lưới trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT). Nếu năm học 2012 -2013, toàn vùng có 5 tỉnh có trường PTDTBT, gồm 81 trường và 10.682 học sinh bán trú, thì đến năm học 2016-2017, toàn vùng có 97 trường và 12.753 học sinh bán trú. Ngoài việc thực hiện giảng dạy theo chương trình giáo dục phổ thông, các trường còn tích cực tổ chức các nội dung giáo dục đặc thù để hướng học sinh DTTS vào các hoạt động bổ trợ nhằm phục vụ tốt cho việc nâng cao chất lượng học tập. Công tác nuôi dưỡng, chăm sóc học sinh được thực hiện khá tốt; về cơ bản, các trường PTDTBT đều bảo đảm được chỗ ăn, ngủ và sinh hoạt an toàn, tiện lợi cho các em. Chính vì vậy, chất lượng giáo dục của trường PTDTBT ngày càng được nâng lên. Năm học 2016-2017, số học sinh hoàn thành cấp tiểu học đạt 98,9%; cấp trung học cơ sở 92%; số học sinh đạt thành tích từ cấp huyện trở lên chiếm 3% ở cả 2 cấp học; số trường đạt chuẩn quốc gia ở cấp tiểu học là 5 trường, cấp trung học cơ sở 1 trường. Kết quả này đã khẳng định chất lượng giáo dục của các trường PTDTBT ở vùng Tây Nguyên đã đạt được nhiều tiến bộ rõ rệt, mặt bằng chất lượng có thể đặt ngang bằng với các trường có điều kiện thuận lợi của vùng. Sự phát triển ổn định về quy mô, số lượng và nâng cao chất lượng đã khẳng định được vai trò to lớn của hệ thống trường PTDTBT trong việc huy động tối đa học sinh tiểu học và trung học cơ sở trong độ tuổi tới trường, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; góp phần quan trọng vào việc củng cố và duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực vùng DTTS ở Tây Nguyên.
Giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề và đại học cũng được phát triển mạnh. Đến nay, vùng Tây Nguyên có 5 trường đại học, 4 phân hiệu/cơ sở của các trường Đại học và 9 trường cao đẳng. Với quy mô sinh viên chính quy tại các trường trên địa bàn của vùng năm học 2016-2017 là 31.386 sinh viên, chiếm 1,77% tổng số sinh viên cả nước (trong đó sinh viên đại học là 19.980 và cao đẳng là 11.406), tỷ lệ sinh viên người DTTS đạt từ 18% -20% trở lên trong tổng số sinh viên của các trường đại học, cao đẳng trong vùng.
Một trong những chính sách phát triển giáo dục dân tộc là thực hiện chế độ cử tuyển học sinh dân tộc tốt nghiệp trung học phổ thông vào theo học tại các trường đại học, cao đẳng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh dân tộc được tiếp cận giáo dục trình độ cao và tạo nguồn cán bộ DTTS tương lai. Trong những năm qua đã có hàng nghìn con em đồng bào dân tộc Tây Nguyên được cử tuyển vào học tại các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp trong vùng và trên cả nước.
Công tác xóa mù chữ cho người DTTS được các địa phương quan tâm. Kết quả trong 5 năm học (2012-2017), các tỉnh đã huy động số lượng học viên ra học các lớp xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ là 7.140 người.
Những khó khăn, thách thức
Bên cạnh những kết quả nêu trên, việc bảo đảm quyền học tập của người DTTS ở Tây Nguyên hiện nay vẫn còn không ít khó khăn, thách thức, cụ thể như:
Nhìn chung, mặt bằng giáo dục, trình độ dân trí của đồng bào các DTTS vẫn còn có khoảng cách khá xa so với mặt bằng chung cả nước. Chất lượng học tập của học sinh DTTS trên địa bàn Tây Nguyên còn thấp, còn có sự chênh lệch lớn về giáo dục giữa học sinh người DTTS và học sinh người Kinh. Ở nhiều vùng sâu, vùng xa, khoảng cách từ nhà đến trường học còn lớn, nhiều hộ đồng bào dân tộc còn thói quen đưa con đi rẫy, chưa quan tâm, chăm lo đến việc học tập của con cái và bản thân họ. Theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 1-4-2019, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long là các vùng có tỷ lệ dân số trong độ tuổi đi học nhưng không đi học cao nhất cả nước, tỷ lệ của mỗi vùng là 13,3% (toàn quốc 8,3%). Hiện nay, tỷ lệ biết chữ trong các độ tuổi của các tỉnh Tây Nguyên còn thấp hơn mặt bằng chung của toàn quốc. Tổng số người mù chữ trong độ tuổi từ 15 - 60 của các tỉnh Tây Nguyên là 535.005 người, chiếm 18% tỷ lệ người mù chữ trong toàn quốc (2.892.106 người).
Cơ sở vật chất trường lớp và trang thiết bị dạy học đối với giáo dục mầm non còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ ảnh hưởng đến tỷ lệ huy động trẻ đến trường. Tỷ lệ phòng bán kiên cố còn chiếm quá nửa tổng số phòng học, có 19,7% phòng học chưa đạt chuẩn, 5,08% phòng học tạm (trong khi đó bình quân chung toàn quốc, số phòng học chưa đạt chuẩn tỷ lệ là 10,7%, phòng học tạm tỷ lệ là 3,7%), còn nhiều điểm trường nhỏ lẻ, phân tán. Tỷ lệ nhập học ở bậc mẫu giáo thấp, chỉ đạt 33%, bằng 2/3 mức trung bình của cả nước (khoảng 46,4%).
Việc thực hiện một số chính sách đặc thù về giáo dục, đào tạo ở vùng đồng bào DTTS chưa tốt, nhất là các chính sách như cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ mặc dù rất thiết thực nhưng triển khai kém, chất lượng đào tạo và sử dụng chưa cao.
2. Một số giải pháp góp phần bảo đảm quyền học tập của người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
Để đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục dân tộc, bảo đảm quyền học tập của người DTTS ở Tây Nguyên góp phần thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau: