profile picture

Anonymous

upvote

0

downvote

0

star

Bố cục Bình Ngô đại cáo hay, chính xác nhất - Kết nối tri thức

clock icon

- asked 4 months agoVotes

message

0Answers

eye

0Views

Bố cục Bình Ngô đại cáo - Ngữ văn lớp 10 Kết nối tri thức

Bài giảng Ngữ văn 10 Bình Ngô đại cáo - Kết nối tri thức

A. Bố cục Bình Ngô đại cáo

- Phần 1 (từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”): Luận đề chính nghĩa (Tiền đề lí luận)

- Phần 2 (tiếp đó đến “Ai bảo thần dân chịu được”): Bản cáo trạng hùng hồn, đẫm máu về tội ác của kẻ thù. (Soi chiếu lí luận vào thực tiễn)

- Phần 3 (tiếp đó đến “Cũng là chưa thấy xưa nay”): Bản hùng ca về cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn

- Phần 4 (còn lại): Lời tuyên bố độc lập.

B. Nội dung chính Bình Ngô đại cáo

Bình Ngô đại cáo là bài cáo viết bằng văn ngôn do Nguyễn Trãi soạn thảo vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt.

C. Tóm tắt tác phẩm Bình Ngô đại cáo

Tóm tắt tác phẩm Bình Ngô đại cáo (mẫu 1)

Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không chỉ tuyên bố độc lập, mà còn khẳng định sự bình đẳng của Đại Việt với Trung Quốc trong lịch sử từ trước đến nay và thể hiện nhiều ý tưởng về sự công bằng, vai trò của người dân trong lịch sử và cách giành chiến thắng của quân khởi nghĩa Lam Sơn.

Tóm tắt tác phẩm Bình Ngô đại cáo (mẫu 2)

“Đại cáo bình Ngô” là tác phẩm nêu cao chủ nghĩa yêu nước, ca ngợi cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc, vì đạo lí chính nghĩa. Thể hiện tinh thần nhân đạo, quan niệm sức mạnh vô địch là bắt nguồn từ “chí nhân”, “đại nghĩa”, từ nhân dân. Bài cáo đã khái quát kháng chiến gian lao nhưng vô cùng anh dũng của dân tộc trong quá trình kháng chiến chống giặc Minh xâm lược. Tác giả đã khẳng định, đề cao sức mạnh của lòng yêu nước, tư tưởng nhân nghĩa, ca ngợi cuộc kháng chiến anh hùng dân tộc, thể hiện sâu sắc niềm tự hào dân tộc.

D. Tác giả, tác phẩm Bình Ngô đại cáo

I. Tác giả 

- Nguyễn Trãi sinh năm 1380, mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê ở làng Chi Ngại (Chi Linh, Hải Dương) sau rời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội)

- Gia đình: Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình cả bên nội và bên ngoại đều có hai truyền thống lớn là yêu nước và văn hóa, văn học. Chính điều này đã tạo điều kiện cho Nguyễn Trãi được tiếp xúc và thấu hiểu tư tưởng chính trị của Nho giáo.

- Sự nghiệp sáng tác: Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm

+ Sáng tác viết bằng chữ Hán: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng, Văn loại.

+ Sáng tác viết bằng chữ Nôm: Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ viết theo thể Đường luật hoặc Đường luật xen lục ngôn.

+ Ngoài sáng tác văn học, Nguyễn Trãi còn để lại cuốn Dư địa chí, một bộ sách địa lí cổ nhất Việt Nam.

- Phong cách sáng tác:

+ Văn chính luận: Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất, những tác phẩm văn chính luận của ông có luận điểm vững chắc, lập luận chặt chẽ với giọng điệu linh hoạt

+ Nguyễn Trãi là nhà thơ trữ tình sâu sắc.

Bình Ngô đại cáo– Tác giả tác phẩm Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức (ảnh 1)

II. Tác phẩm văn bản Bình Ngô đại cáo

1. Thể loạiCáo

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

- Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông buộc phải giảng hòa, rút quân về nước, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Đại cáo Bình Ngô.

- Đại cáo bình Ngô có ý nghĩa trọng đại như một bản tuyên ngôn độc lập, được công bố vào thánh Chạp, năm Đinh Mùi (tức đầu năm 1428)

3. Tóm tắt văn bản Bình Ngô đại cáo

Sau khi nước ta giành được thắng lợi của cuộc chiến chống quân Minh, vua Lê Lợi đã lệnh cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo. Năm 1428, bài cáo này đã được công bố đến toàn thể nhân dân. Bình Ngô đại cáo đã thuật lại và tổng kết lại quá trình đánh đuổi quân Minh khỏi bờ cõi của nhân dân ta, cho thấy chiến thắng vang dội cùng lời tuyên bố hùng hồn về chủ quyền của dân tộc. Bình Ngô đại cáo gồm có ba phần với sự liên kết chặt chẽ với nhau. Phần một thể hiện tư tưởng của tác giả, đó là tư tưởng nhân nghĩa. Đến phần thứ hai, Nguyễn Trãi đã vạch trần những tội ác của giặc Minh xâm lược và phần cuối cùng chính là sự thuật lại những trận đánh, những chiến công trong cuộc chiến của quân dân ta. Cả bài cáo thể hiện lên lòng tự hào dân tộc sâu sắc cùng với lời tuyên bố chủ quyền lãnh thổ hùng hồn mà không kẻ địch nào có quyền được xâm phạm tới.

Bình Ngô đại cáo– Tác giả tác phẩm Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức (ảnh 1)

4. Bố cục văn bản Bình Ngô đại cáo

- Phần 1 (từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”): Luận đề chính nghĩa (Tiền đề lí luận)

- Phần 2 (tiếp đó đến “Ai bảo thần dân chịu được”): Bản cáo trạng hùng hồn, đẫm máu về tội ác của kẻ thù. (Soi chiếu lí luận vào thực tiễn)

- Phần 3 (tiếp đó đến “Cũng là chưa thấy xưa nay”): Bản hùng ca về cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn

- Phần 4 (còn lại): Lời tuyên bố độc lập

5. Giá trị nội dung văn bản Bình Ngô đại cáo

- Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập, qua đó vạch tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

6. Giá trị nghệ thuật văn bản Bình Ngô đại cáo

- Lí luận chặt chẽ, hợp lí lời lẽ hùng hồn

- Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương

E. Đọc tác phẩm Bình Ngô đại cáo

Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.

Từng nghe:Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,Núi sông bờ cỏi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng khác;Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,Song hào kiệt thời nào cũng có.

Cho nên:Lưu Cung tham công nên thất bại;Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;Cửa Hàm Tử bắt sống Toa ĐôSông Bạch Đằng giết tươi Ô MãViệc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

Vừa rồi:Nhân họ Hồ chính sự phiền hàĐể trong nước lòng dân oán hậnQuân cuồng Minh thừa cơ gây hoạBọn gian tà còn bán nước cầu vinhNướng dân đen trên ngọn lửa hung tànVùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạDối trời lừa dân đủ muôn ngàn kếGây thù kết oán trải mấy mươi nămBại nhân nghĩa nát cả đất trời.Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?Nặng nề những nổi phu phenTan tác cả nghề canh cửi.Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?

Ta đây:Núi Lam sơn dấy nghĩaChốn hoang dã nương mìnhNgẫm thù lớn há đội trời chungCăm giặc nước thề không cùng sốngĐau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trờiNếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.Những trằn trọc trong cơn mộng mị,Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồiVừa khi cờ nghĩa dấy lên,Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:Tuấn kiệt như sao buổi sớm,Nhân tài như lá mùa thu,Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.Phần vì giận quân thù ngang dọc,Phần vì lo vận nước khó khăn,Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,Lúc Khôi Huyện quân không một đội.Trời thử lòng trao cho mệnh lớnTa gắng trí khắc phục gian nan.Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phớiTướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,Lấy chí nhân để thay cường bạo.Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.Sĩ khí đã hăngQuân thanh càng mạnh.Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặmTốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầuMọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháyMã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừngĐồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháyĐinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lạiNăm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phongSau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thựcNgày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thếNgày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầuNgày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vongNgày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung pháBí nước giặc quay mũi giáo đánh nhauLại thêm quân bốn mặt vây thànhHẹn đến giữa tháng mười diệt giặcSĩ tốt kén người hùng hổBề tôi chọn kẻ vuốt nanhGươm mài đá, đá núi cũng mònVoi uống nước, nước sông phải cạn.Đánh một trận, sạch không kình ngạcĐánh hai trận tan tác chim muông.Cơn gió to trút sạch lá khô,Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đườngXương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nướcGhê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờBị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khócThành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàngTướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạngThần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinhMã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòngTa lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.Chẳng những mưu kế kì diệuCũng là chưa thấy xưa nayXã tắc từ đây vững bềnGiang sơn từ đây đổi mớiCàn khôn bĩ rồi lại tháiNhật nguyệt hối rồi lại minhNgàn năm vết nhục nhã sạch làuMuôn thuở nền thái bình vững chắcÂu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi!Một cỗ nhung y chiến thắng,Nên công oanh liệt ngàn nămBốn phương biển cả thanh bình,Ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,Ai nấy đều hay.

( Ngô Tất Tố dịch)

F. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo

- “Đại cáo bình Ngô” là dịch 4 chữ Hán: Bình Ngô Đại Cáo, tác phẩm Do Nguyễn Trãi viết lấy danh nghĩa của Vua Lê Thái Tổ.

- Nhan đề có ý nghĩa sau: “Đại Cáo Bình Ngô” là Bản cáo lớn gửi đến quốc dân đồng bào về chiến thắng oanh liệt của quân dân ta đánh tan được quân Ngô.

Write your answer here

Popular Tags

© 2025 Pitomath. All rights reserved.