
Anonymous
0
0
Bố cục Bến Nhà Rồng năm ấy (Chân trời sáng tạo) chính xác nhất
- asked 2 months agoVotes
0Answers
0Views
Bố cục Bến Nhà Rồng năm ấy
Gồm 3 phần.
+ Phần 1: Sự kiện Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước.
+ Phần 2: Nguyên nhân ra đời Bến Nhà Rồng.
+ Phần 3: Quá trình phát triển của Bến Nhà Rồng.
Đọc tác phẩm Bến Nhà Rồng năm ấy
Cảng Nhà Rồng mờ mờ ánh đèn. Đêm hè trải dài theo gió. Gió va vào những boong tàu, dây buồm, phát ra những âm thanh hiu hắt hòa trong tiếng sóng vỗ bờ. Mấy con thuyền câu, bè vó như những chấm đen trôi lững đững trên sông loang loáng ánh đêm. Từ bên Thủ Thiêm, những ngôi sao lạc kẻ từng đường sáng giữa mênh mông.
Anh Ba ngồi kề vai với anh Tư Lê bên bờ sông. Họ im lặng nhìn xuống dòng sông. Anh Ba vẻ thận trọng hỏi Tư Lê:
- Anh Tư nầy. – Tư Lê xoay người nhìn vào mặt anh Ba – anh có dám nghĩ đến việc đuổi Tây ra khỏi nước mình không?
- Tôi là người thợ. Nhà tôi có thù với chúng mà, anh Ba!
Hai người im lại im lặng. Trước mặt họ một chân trời đen kịt. Anh Ba dè dặt hỏi:
– Anh có giữ kín được không?
– Kín chớ. Ơn sâu nghĩa nặng từ kinh đô Huế. Rượu thề kết nghĩa trên sông Phan Thiết, quên làm sao được, anh Ba.
Bóng tối như loãng ra quanh hai người. Anh Ba thì thầm:
Tư Lê hơi bối rối. Anh cầm bàn tay anh Ba:
– Đi tới đâu hả anh Ba?
Tư Lê băn khoăn:
– Đuổi Tây, giành độc lập tự do, sao chúng mình lại sang Tây?
– Tôi đọc báo, đọc sách của những người Pháp viết, họ bàn nhiều đến quyền tự do, bình đẳng, bác ái. Tôi nghĩ, quyền lợi tối cao của một dân tộc là độc lập, tự chủ. Quyền cơ bản nhất của con người ở trong xã hội là quyền tự do, bình đẳng giữa người với người. Tôi muốn sang Pháp để được nhìn tận mắt người dân Pháp họ sống thế nào, đằng sau những cái chữ tự do, bình đẳng, bác ái ẩn náu những gì.
Anh Tư Lê do dự:
– Lấy tiền đâu mà đi và sang tận bên Tây lạ nước lạ cái, sống bằng cách chỉ được, anh Ba?
– Đây – anh Ba giọng cương quyết, chìa hai tay ra giữa bóng đêm – tiền đây. Chúng ta sống bằng bàn tay, bằng cái đầu của chúng ta.
Anh Tư Lê thở dài:
Ngày 2 tháng 6 năm 1911.
Anh Ba mặc quần áo trắng, toát lên màu thanh khiết, tóc rẽ đường ngôi bên phải, chải mượt, chân đi dép xăng-đan (sandal). Anh đi khoan thai xuống tàu Đô đốc La-tu-sơ To-rê-vin (Latouche-Tréville).
Được sự giới thiệu của ông chủ sự cảng Nhà Rồng, anh Ba gặp viên thuyền trưởng. Thuyền trưởng Lu-i Ê-du-a Mai-sen (Louis Édouard Maisen) trạc tuổi gần bốn mươi, tiếp anh Ba dưới buồng khách của con tàu. Ông ta quan sát diện mạo anh Ba với một thái độ trọng nể. Ngay từ phút đầu, ông Mai-sen đã để ý tới đôi mắt to, dài và sáng của anh Ba. Ông chìa hai bàn tay ra trước mặt, nói:
− Ô! Nhìn anh, tôi ưa lắm, tốt lắm. Tiếc là trên con tàu của tôi không còn có loại công việc hợp với anh – Mai-sen lật lật quyển sổ nhân sự để trước mặt. Ông lại nhìn anh Ba, hỏi: — Anh biết đọc chữ Pháp chứ?
– Thưa ông Mai-sen, tôi đọc được ạ.
−Ồ..! Tốt, tốt lắm. — Mai-sen chỉ vào trang sổ nhân sự và nói bằng tiếng Pháp: – Đây. Anh xem, vừa mới sáng nay, tôi đã nhận thêm bốn người An-nam. Danh sách bốn người đây. – Mai-sen đọc tên từng người: – Đặng Quang Giao, Lê Quang Chi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Văn Trị.
Anh Ba chau mày, những ngón tay gõ gõ trên mặt bàn. Hai mắt anh Ba như phủ một lớp sương chiều. Ông Mai-sen đọc được những băn khoăn trong đôi mắt anh Ba:
– Tôi biết những người như anh muốn làm cánh chim bay trên những miền đất lạ.
Tiếc là, trên con tàu của tôi chỉ còn cần một chân phụ bếp.
Hai mắt anh Ba bừng sáng:
– Thưa ông Mai-sen, tôi đề nghị ông nhận tôi vào chân phụ bếp ấy.
− Ồ.. ! — Mai-sen nhìn anh Ba, hơi ngờ vực. – Một thư sinh như anh chịu không nổi đâu. Công việc làm bếp ở con tàu này rất nặng nhọc. Hằng ngày phải lo những bữa ăn cho cả trăm người với nhiều khẩu phần khác nhau; riêng hành khách có vé hạng nhất đã bốn mươi người.
Anh Ba chìa hai bàn tay ra trước ông Mai-sen:
– Ông xem những vết chai sạn trên bàn tay của tôi.
Mai-sen cầm lấy bàn tay anh Ba ngắm, mỉm cười:
–Người phương Tây chúng tôi rất tin khoa xem tướng bàn tay. Tôi không sành bói toán, nhưng bàn tay anh ngón thon dài thế này thì viết chữ đẹp, có năng khiếu mĩ thuật và âm nhạc. Anh được cả hai cái lớn: con mắt và bàn tay. Tôi biết một câu rất hay mà người An-nam hay dùng: “Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”.
– Ông đã xem tướng tôi, ông có tin là tôi làm được phụ bếp không?
– Tôi muốn nhận anh vào một công việc hợp với khả năng của anh, ít ra cũng là một chân thư kí trên con tàu của tôi. Để anh giữ chân phụ bếp, phí quá – ông ta hạ giọng: – Thôi được, từ ngày mai – ông ta nhìn lên tấm lịch – ngày mai là mồng 3 tháng 6, anh xuống tàu nhận việc. Tôi sẽ báo cho ông quản bếp để tiếp nhận anh đúng 8 giờ sáng mai. Tháng đầu tiên này tôi tạm cấp lương cho anh là 45 phờ-răng (Franc). Được chứ?
Anh Ba cười:
– Tôi sẽ làm việc xứng đáng với sự tin dùng của ông.
Ông Mai-sen còn đưa cho anh Ba một tấm thiếp in hình con tàu rẽ sóng đại dương, có chữ kí của ông, và một cuốn sách mỏng, cỡ bỏ túi, ngoài bìa cũng có hình con tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin. Ông dặn cẩn thận:
Xem đến trang giới thiệu về khu vực nhà bếp, anh Ba mỉm cười: mình sẽ được làm bạn với Táo quân.
Nội dung chính Bến Nhà Rồng năm ấy
Văn bản trên kể về sự việc nhân vật “anh Ba” rời bến cảng nhà Rồng sang phương Tây tìm đường cứu nước và cụ thể là sang Pháp.
Tóm tắt Bến Nhà Rồng năm ấy
Ý nghĩa nhan đề Bến Nhà Rồng năm ấy
Nhắc đến Bến Nhà Rồng, trong mỗi chúng ta không thể không biết đến địa danh nổi tiếng đã góp phần thay đổi toàn bộ lịch sử của nền dân tộc Việt Nam. Nơi đây, ngày 5/6/1911, chàng thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành đã lên con tàu Amiral Latouche Tréville (Pháp) lấy tên là Văn Ba, bắt đầu chuyến hành trình tìm đường cứu nước kéo dài 30 năm.
Giá trị nội dung Bến Nhà Rồng năm ấy
- Văn bản trên kể về sự việc nhân vật “anh Ba” rời bến cảng nhà Rồng sang phương Tây tìm đường cứu nước và cụ thể là sang Pháp.
Giá trị nghệ thuật Bến Nhà Rồng năm ấy
- Kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách sinh động cụ thể, gây được ấn tượng.
- Khắc họa hình tượng anh Ba một cách rõ nét, mang đậm màu sắc sử thi.
- Kể lại các sự kiện một cách rành mạch, chân thực, khách quan, kết hợp yếu tố miêu tả với biện pháp nghệ thuật so sánh, đối lập.