
Anonymous
0
0
Ánh sáng cứu rỗi - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 12 - Cánh diều
- asked 4 months agoVotes
0Answers
0Views
- Bảo Ninh, sinh năm 1952, quê ở Quảng Bình.
- Tên thật là Hoàng Ấu Phương
- Ông là nhà văn quân đội, từng trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Nam trước năm 1975
- Vai trò, vị trí: Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1997.
- Phong cách sáng tác: ông chuyên viết về đề tài về chiến tranh. Tác phẩm của ông đề cao tính sáng tạo, chất riêng. Ông luôn khám phá tìm tòi vẻ đẹp ẩn chứa bên trong mỗi sự vật, hiện tượng.
- Tác phẩm tiêu biểu: Nỗi buồn chiến tranh, Trại bảy chú lùn,…
II. Tìm hiểu văn bản Ánh sáng cứu rỗi
1. Thể loại
- Tác phẩm Ánh sáng cứu rỗi thuộc thể loại: tiểu thuyết.
2. Xuất xứ
- In trong Nỗi buồn chiến tranh, NXB Văn học, Hà Nội, 2006.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: tự sự.
4. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề có mối liên hệ mật thiết đến chủ đề của đoạn trích. Ánh sáng chính là biểu tượng cho sự tốt đẹp, cho một tia hi vọng. “Ánh sáng cứu rỗi” chính là nguồn hi vọng, là phần sáng trong tâm hồn u tối, cứu lấy con người khỏi bóng đêm trong tâm hồn hay chính là những ám ảnh chiến tranh đang dần gặm nhấm tâm hồn con người.
5. Bố cục Ánh sáng cứu rỗi
- Phần 1 ( Từ đầu… Hòa đứng dậy): Cuộc chạy thoát thân của Kiên cùng đồng đội.
- Phần 2 ( Trên đường về… làm nóng lớp vỏ thép): Hành động của Kiên và Hòa khi gặp lính Mỹ.
- Phần 3 ( Sau đấy chẳng thấy ai… thời quá khứ): Hồi tưởng của Kiên về quá khứ và nỗi mất mát hi sinh về đồng đội lúc trước.
6. Tóm tắt Ánh sáng cứu rỗi
Chiến tranh là tội ác lớn nhất đối với những chiến sĩ, những đồng đội, người kháng chiến. Chiến tranh đã khiến cho Kiên và Hòa xa rời nhau mãi mãi để rồi khiến Kiên trở nên day dứt, đau khổ khi nhớ về quá khứ, nhớ về những người đồng đội đã hi sinh trong cuộc chiến phi nhân đạo. Qua đoạn trích tác giả đề cao tình bạn, tình đồng chí - tình cảm cao đẹp, keo sơn khi sãn sàng khi sinh thân mình để bảo vệ đồng đội. Qua đó lên án thực dân, đế quốc xâm phạm chủ quyền dân tộc và đề cao hòa bình dân tộc.
7. Giá trị nội dung
- Văn bản kể lại kỉ niệm bi thảm, thương tâm và hiểm nghèo nhất trong kí ức chiến tranh của Kiên. Qua đó, nhân vật được hiện lên với 1 hình ảnh thật đẹp và thể hiện được sự đoàn kết, đồng hành cùng nhau để vượt qua những khó khăn, thử thách nơi chiến trường tàn khốc.
8. Giá trị nghệ thuật
- Cốt truyện độc đáo, lôi cuốn.
- Sử dụng ngôi thứ ba, là lời độc thoại của nhân vật do người kể chuyện mượn để làm điểm tựa.
III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Ánh sáng cứu rỗi
1. Tình thế hiểm nghèo của Kiên và đồng đội
- Tình thế hiểm nghèo và phản ứng của Kiên:
+ Sau hai lần bị bao vây, đơn vị Kiên đã tan nát, vụn ra từng tốp, vừa đánh vừa chạy. Trên đường tháo thân, nhóm của Kiên gặp một đoàn binh cũng đã sức cùng lực kiệt. Kiên không muốn gia nhập nhưng đã gặp thì phải nhập.
+ Không có bản đồ, không có địa bàn, chỉ có thể đi theo sự chỉ dẫn của Hòa, nhưng cũng vì căng thẳng mà cô đã dân mọi người đi nhầm đường. Kiên đã vô cùng tức giận, quát tháo Hòa với giọng khàn đặc và hung dữ.
+ Gặp toán lính Mỹ hung bạo cùng con chó béc giê đánh hơi rất giỏi. Kiên sợ hãi, lòng tê bại, thấp thỏm và run rẩy.
2. Diễn biến tâm trạng và hành động của Kiên và Hoà khi đối mặt với toán lính Mỹ
- Khi đối mặt với toán lính Mỹ:
+ Kiên xiết chặt quả lựu đạn, lòng tê bại, thấp thỏm và run rẩy nghĩ.
+ Ngược lại, Hòa lẳng lặng trườn đi lấy súng bắn vào con chó đánh hơi của địch.
+ Con chó lao tới, Hòa không sợ hãi mà bắn thêm hai phát đạn vào nó.
+ Sau đó, Hòa đã dũng cảm dẫn dụ địch đi xa Kiên và lệch khỏi vệt đường dẫn tới khe cạn.
- Nguyên nhân: Hành động của hai nhân vật xuất phát từ tình đồng chí thiêng liêng, Hòa không ngại hi sinh thân mình để dẫn dụ địch giúp đồng đội sống sót. Kiên cũng nhanh chóng hiểu ra cần có người quay về, dẫn đường đưa bao nhiêu đồng đội đang thương binh đang chờ đợi.
3. Nhận xét cốt truyện và cách kể chuyện của Bảo Ninh qua đoạn trích trên
- Cốt truyện: Hấp dẫn, đặc sắc với nhiều tình huống bất ngờ, đưa người đọc đến với nhiều dòng cảm xúc.
=> Thông qua các câu chuyện đã thể hiện rõ tính cách nhân vật và tình đồng chí sắt son, tinh thần đoàn kết cùng nghĩa cử cao đẹp trên chiến trường.
- Cách kể chuyện: Độc đáo với ngôi kể thứ ba lấy điểm nhìn chủ yếu ở nhân vật Kiên. Bởi vậy, những tình huống tưởng như không liên quan đến nhau, rời rạc, vụn vỡ nhưng khi gần nhau, chúng bổ trợ, bù đắp cho nhau, tạo nên ý nghĩa của tác phẩm.
Ánh sáng cứu rỗi
(trích Nỗi buồn chiến tranh)
Bảo Ninh
Trong không đầy nửa tháng mùa khô, hai lần bị bao vây, hai lần liều mạng mở đường máu, đơn vị Kiên tan nát, vụn ra từng tốp, vừa đánh vừa chạy. Kiên cùng ba chiến sĩ nữa trong đại đội hợp thành một nhóm vượt qua sông Pô-cô, rồi lách ngang vùng Đồi Đen bị B52 chần ra bột, nhằm hướng Mặt Trời lặn mà tháo thân.
Ngang qua vùng rừng trũng dưới chân Ngọc Bơ Rẫy, bọn anh gặp một đoàn chừng hai chục cáng thương đang trên đường lánh sang đất Miên, bên kia sông Sa Thầy. Đã gặp thì phải nhập vào với họ chứ thực tình Kiên chẳng muốn chút nào. Lực lượng này đã quá tơi tả. Đạn dược thiếu, lương thực gần nhẵn. Sức cùng lực kiệt. Và mặc dù họ có một giao liên dẫn đường nhưng lại là nữ giao liên, mà gái Bắc chứ không phải gái Thượng.
Tứ bề toàn lính Mỹ, khắp các góc rừng họ đều có thể đụng phải chúng hoặc gặp dấu vết chúng vừa đi ngang. Ở các nguồn nước còn sót lại trong các vạt rừng trơ trụi và xác xơ của mùa khô đều có nguy cơ sa vào ổ phục kích. Bom pháo tơi bời, trực thăng và thám báo hoành hành. Sau những cuộc chạm súng bất ngờ, thương binh động lên mà tải thương ít dần. Bây giờ cứ phải ba người khiêng hai cáng. Thế mà trầy trật, rồng rắn mãi vẫn chưa nghe thấy tiếng Sa Thầy reo, vẫn cứ quẩn quanh dưới Ngọc Bơ Rẫy. Kiên tỏ ý ngờ là đã lạc lối song Hoà, cô giao liên, một mực quả quyết là không thể đi sai đường được. Không có bản đồ, không rõ địa bàn nên Kiên cũng đành nhắm mắt phó mặc hướng hành trình cho cô gái. Nhưng tới buổi sáng của ngày đường thứ ba thì tình hình trở nên tuyệt vọng, đáng lẽ là bờ đông Sa Thầy thì trước mặt họ trải rộng ra một đầm lầy không thể có cách nào vượt qua.
– Chết rồi! – Hoà buột thốt lên – Hồ Cá Sấu!
Kiên đứng lặng trên bờ cỏ ở mép hồ nhìn làn hơi thổi hoắc bốc lên, quánh lại, dập dờn phủ lên các vạt lau lách. Đây đó mấy con cá sấu giương những cặp mắt không mi thao láo trên váng nước xanh lè.
– Hồ Cá Sấu à? Thì ra cái hố hôi thối này là nơi cô muốn đưa chúng tôi đến để vãng cảnh phải không? – Kiên hất hàm nói, giọng khản đặc, hung dữ.
– Em có lỗi! – Hoà cúi mặt xuống, nói nhỏ.
Hoà ngẩng lên, cặp mắt to rân rấn lệ, môi run run nói:
– Cô sẽ cho anh em thương binh tắm bùn chứ?
L-192 lượn vòng rất thấp trên mái rừng. Đạn pháo như tiếng nấc nghẹn chụp xuống một loạt ở bên kia hồ. Rồi một loạt nữa. Một loạt nữa cấp tập. Mặt đất xóc nảy lên. Sóng nổi làm mặt hồ buồn thảm phủ nể nhăn nhúm lại.
Họ đi chếch lên hướng tây bắc và tìm thấy dấu một dường giao liên đã bỏ hoa, luồn dưới đáy những lạch suối đã tắt ngấm mạch nước. Vừa chạm vào đường giao liên đã có thể cảm thấy hơi hướng của dòng sông. Rừng có vẻ xanh tươi hơn. Không khí như có chút hơi mát. Từ đây, Hoà có vẻ chắc chắn là mình không lạc đường nữa. Cô dẫn Kiên di chuyển một cách tự tin qua các vùng ánh sáng và bóng tối, vùng khô chát và ẩm ướt, vùng nồng nặc hơi thở rửa nát của những hố lầy lớn nhỏ và vùng ngào ngạt hương thơm của các trảng cỏ đỏ ối những hoa là hoa. Đường giao liên không rõ nét dưới những thảm cỏ đã hoá mùn, đôi lúc lặn mất tăm. Nhưng dòng trôi trầm trầm của Sa Thầy mỗi lúc một rõ. Hai người đi ngang qua một nương sắn đã bỏ hoang lút cỏ dại và dừng lại trước một con đường dốc có xẻ bậc dẫn xuống một vực sâu màu lục.
– Dòng sông! – Hoà nói, tươi hẳn nét mặt lên nhìn Kiên. Giữa lòng thung sâu, Sa Thầy hiện lên thấp thoáng dưới mái rừng. Mặt nước sáng bạc lấp lánh ánh nắng phản chiếu không ngừng uốn lượn và gấp khúc. Dòng sông cất giọng thì thầm, trầm và sâu, thấp hơn tiếng cây cối thì thào một âm bậc.
– Không cần phải xuống tận nơi đâu, anh ạ. Đường thể là rõ rồi. Ta về đưa mọi người đi ngay thôi. Về tới khe cạn chắc cũng vừa tối.
– Ừ. Nhưng ngồi nghỉ một lát đã.
– Vâng. Em cũng hết cả hơi rồi.
Họ ngồi xuống cạnh nhau trên đỉnh dốc. Dưới xa dòng sông. Mãi tới lúc này Kiên mới nhìn Hoà. Anh muốn khen ngợi cô, muốn xin lỗi vì đã nặng lời nhưng không biết nên nói thế nào. […]
Hoà chiến đấu lâu chưa?
– Em vào B2 năm 66. Hai năm rồi, nhưng chủ yếu ở dưới cánh trung. Vùng này, em không thạo lắm. Mà cũng chưa bao giờ phải trải qua tình cảnh khó khăn như lần này. Cảnh này có lẽ còn kéo dài, anh nhỉ?
– Khó khăn chung của toàn chiến trường. Có thể chỉ mới bắt đầu.
Xa xa đại bác âm ỉ. Đâu đó phành phành tiếng trực thăng.
– Anh nhớ đường cho chắc nhé! – Hoà bỗng nói.
– Ừ. Nhưng Hoà còn nhớ chắc hơn chứ.
– Vâng. Nhưng mà nhỡ ra em lại mắc lỗi gì, anh tử hình em thì sao?
− A, nhắc gì chuyện đó nữa, Hoà! Nóng giận lên ấy mà. Kể gì.
– Hồi đi Bạ Hoà bao nhiêu tuổi?
— Mười tám. Hai năm rồi, thế mà vẫn chưa sao quen được.
– Ai mà có thể quen nổi, – Kiên thở dài, dụi điếu thuốc xuống đất rồi bảo:
- Bây giờ, Hoà ở lại đây chờ. Mình mình quay lại đón mọi người thôi. Hoà ngồi chờ ở đây, tranh thủ mà nghỉ đi. Đường còn xa, còn vất vả lắm.
– Không. Sao lại thế. Em là giao liên cơ mà. Với lại, ngồi một mình thế này em kinh lắm. Và, em muốn đi với anh, Kiên ạ!
– Thế thì ta đi đi – Kiên nói khẽ và quàng tay ôm lấy vai Hoà. Trìu mến, dịu hiền, Hoà từ từ ngả đầu vào vai anh. Họ ngồi tựa vào nhau như thế một lúc nữa, một lúc lâu. Tiếng ù ù của chiếc AD6 bay tuần tra triền sông kéo họ ra khỏi thoáng êm đềm. Miễn cưỡng, Kiên đỡ Hoà đứng dậy.
Trên đường về, cả hai đều rảo bước. Bóng của họ ngả dài. Trên rặng Ngọc Bơ Rẫy, ánh tà nhuộm đỏ các đỉnh núi. Cảnh rừng trong bóng chiều im lặng nặng nề.
Một nỗi căng thẳng khó chịu cứa vào tâm trạng hai người. Họ đi mau, không trò chuyện. Tiếng gió lào xào và tiếng cành khô gãy. Một con rắn hổ mang lướt nhanh qua lối mòn. Gió từ mạn hồ Cá Sấu thổi tới mùi bùn nồng nặc. Chỉ còn một đoạn mười phút nữa là về tới khe cạn chỗ anh em thương binh đang đợi. Họ đã vượt qua tảng đá hình đầu người và bắt đầu đi vào rừng tre gai. Chim chóc từ rừng bay ra gặp hơi nóng ngoài trảng liền bay lộn vào kêu inh ỏi. Mới đi qua mấy làm trẻ chẳng chịt ở bìa rừng, Kiên sững lại. Nghẽn trong cổ họng một tiếng kêu. Kiên tái mặt kéo Hoà ngồi thụp xuống. Bọn Mỹ!
Đoàn tải thương lập tức dắt díu, khiêng cáng nhau di chuyển. Và mặc dù đêm tối trời đen đặc lại phải đi tránh khỏi cái trảng có tảng đá hình đầu người dùng làm vật chuẩn, Kiên vẫn định được hưởng. Trong đêm, theo lối mòn, Hoà đã tìm thấy khi chiều. Anh dẫn cả đoàn tiếp cận bờ sông và vượt sang ngang trót lọt. Do không chạm địch nên Kiên không phải dùng tới trái lựu đạn. Cả đêm anh giữ nó lăm lăm trong tay, làm nóng lớp vỏ thép.
Sau đấy chẳng thấy ai hỏi gì anh về Hoà cả. Anh cũng chẳng kể, rồi cũng bằng quên. Có lẽ, đức hi sinh, sự quên mình là cái gì quá giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ quên.
Một người ngã xuống để người khác có thể sống, chuyện đó quá thông thường. Phải rất nhiều năm sau, nhờ tham gia vào đội thu nhặt hài cốt tử sĩ của sư đoàn, Kiên mới có dịp trở lại vùng hồ Cá Sấu. Tất nhiên anh nhớ ngay tới Hoà và muốn đi tìm lại đoạn đường rừng ngày trước. Nhưng cái trảng trống ấy không hiểu sao chẳng còn dấu vết. Tảng đá hình đầu người, chứng tích duy nhất như thể đã bị nhoà trong thời gian.
Chỉ còn lại đó ngàn cây âm u, những thảm lá mục nát lấp lên đáy rừng, các khe cạn, tiếng chim chóc, tiếng gió, tiếng những nguồn nước thì thầm xa xôi và hương thơm hoa chạc chậu, hoa vòi voi, hoà quyện vào nhau gợi nhớ và lưu giữ một điều gì đấy thầm lặng, mơ hồ, phảng phất đâu đây.
Ngồi xuống ở một bìa rừng trong bóng hoàng hôn, nhắm mắt lại dõi nhìn vào cõi xa khuất, lặng lẽ Kiên trông thấy toàn cảnh của những gì mà trí nhớ đã lảng tránh suốt bao năm từ bấy đến giờ. Anh cảm thấy lại cả trái lựu đạn đã rút chốt mà không dám phát nổ của mình buổi chiều hôm đó đang nằm nằng nặng trong lòng bàn tay. Tuy nhiên, bao nhiêu sợ hãi và đau đớn, uất giận và căm hờn, những trạng thái tinh thần bạo liệt đã co giật và giằng xé trong lòng anh khi ấy trước tình cảnh kinh khủng quá sức chịu đựng ấy, không còn có thể trỗi dậy cùng với hồi tưởng. Bây giờ đây chỉ có nỗi buồn, mênh mang nỗi buồn – nỗi buồn được sống sót, nỗi buồn chiến tranh – tràn phủ tâm hồn anh.
Chính là từ chuyến đi tảo mộ năm ấy, trên con đường hành hương xuyên giữa rừng rậm chằng chịt những sự tích bị lãng quên, qua hồ Cá Sấu với Hoa, qua Truông Gọi Hồn với anh em trong trung đội trinh sát mà Kiên đã bắt đầu quá trình lâu dài cảm nhận lại chiến tranh dưới lần ánh sáng chậm rãi của nỗi buồn.
Từng bước một, từng bước một, từng ngày, từng sự kiện được tái hiện trong lòng anh một cách trầm tĩnh và u buồn. Ánh sáng của nỗi buồn soi về quá khứ, ấy cũng là ánh sáng thức tỉnh, ánh sáng cứu rỗi của đời anh. Bằng sự trầm mình sâu xa trong hồi tưởng, trong nỗi đau buồn chiến tranh không bao giờ nguôi mà anh sẽ tồn tại đến trót đời với thiên chức là một cây bút của những người đã hi sinh, là nhà tiên tri những ăm tháng đã qua đi, người báo trước thời quá khứ.
(Nỗi buồn chiến tranh, NXB Văn học, Hà Nội, 2006)