
Anonymous
0
0
TOP 9 mẫu Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà (2024) SIÊU HAY
- asked 4 months agoVotes
0Answers
0Views
Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà
Bài giảng Người lái đò sông Đà
Dàn ý Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà
I. Mở bài
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, nhà văn nổi tiếng trong cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Tùy bút Người lái đò sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo và tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân trên bước đường đi tìm vẻ đẹp tả cảnh và người Tây Bắc – “chất vàng mười” của tâm hồn.
II. Thân bài
a. Vẻ đẹp trữ tình của một quãng sông êm ả, hiền hòa
– Nhà văn miêu tả một cách vô tư, khách quan kết hợp với suy nghĩ cá nhân.
– Nhiều hình ảnh đẹp, tinh lọc, sắc sảo.
– Đặc biệt, nhà văn dùng thủ pháp so sánh tu từ, nhân hóa tu từ, điệp câu trúc cú pháp để:
+ Miêu tả vẻ đẹp trữ tình, thi vị, hoang dại, cổ kính của dòng sông.
+ Gợi thần thái của dòng sông: Dòng sông như một sinh thế mang nặng tâm trạng, cảm xúc.
– Nhà văn dùng những nét chấm phá rất tài hoa của nghệ thuật hội họa, điêu khắc:
+ Gam màu nhạt tạo cảm giác trữ tình thơ mộng.
+ Không gian: tĩnh mịch, hoang vắng (ngoại trừ thanh âm của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sóng”).
– Nhà văn có cách phối hợp thanh điệu, nhịp điệu của câu văn cũng rất tài hoa.
b. Cảm xúc của du khách – nhân vật trữ tình trên sông Đà
– Rung cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp ngây ngất của thiên nhiên và chiêm ngưỡng vẻ đẹp ấy bằng đôi mắt của một người nghệ sĩ tài hoa, một người yêu.
Nhìn cảnh ven sông lặng tờ, người nghệ sĩ liên tưởng tới quá khứ của quãng sông để so sánh, đối chiếu, khám phá ra vẻ đẹp hoang dại, cổ tích, huyền thoại kì thú của nó cũng như vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn nảy nở, sinh sôi của cảnh vật thực tại.
– Yêu thiên nhiên nồng nàn, tha thiết; hòa nhập tâm hồn mình với thiên nhiên. Người nghệ sĩ ấy với thiên nhiên như một người bạn tri âm, tri kỷ nên rất thấu hiểu thiên nhiên.
– Khát khao, mơ ước, hi vọng về một tương lai tốt đẹp cho vùng đất Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc.
III. Kết bài
- Cả tác phẩm cũng như trích đoạn đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình yêu thiên nhiên, đất nước mãnh liệt, yêu những con người lao động chân chính, hăng say và đặc biệt càng thêm yêu vùng đất Tây Bắc xa xôi nhưng giàu tiềm năng của Tổ quốc Việt Nam.
Bài giảng Người lái đò sông Đà
Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà (mẫu 1)
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, nhà văn nổi tiếng trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Ông đã để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn học phong phú với nhiều tác phẩm như Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I, Tùy bút II (1943), Tóc chị Hoài (1943), Nguyễn (1945), Chùa Đàn (1946), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến và hòa bình I (1955), Tùy bút kháng chiến và hòa bình II (1956), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Kí (1976), Chuyện nghề (1976),… Đặc biệt bài tùy bút Người lái đò sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo và tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân trên bước đường đi tìm vẻ đẹp của cảnh và người Tây Bắc – “chất vàng mười” của tâm hồn. Trích đoạn trong đề bài là một đoạn của tùy bút.
Trước đoạn văn này, tác giả trình bày mục đích chuyến đi thực tế Tây Bắc và sông Đà của mình là để tìm hiểu những con người ở đây mà ông gọi là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của cách mạng và kháng chiến, hiện nay đang góp phần vào việc kiến thiết Tây Bắc. Tiếp đến, tác giả giới thiệu tâm trí tuyệt vời của những người lái đò sông Đà, đồng thời liệt kê một loạt con thác của sông Đà từ Vạn Yên về xuôi, trong đó có những con thác vô cùng “độc dữ, nham hiểm”. Sau đó, nhà văn khám phá tính chất hung bạo và trữ tình của sông Đà. Đặc biệt là miêu tả hình tượng ông lái đò với tư cách một người lao động đầy trí dũng và một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh. Sau cuộc thủy chiến ác liệt giữa người lái đò và con thác dữ, dòng sông Đà như trở lại bản chất trữ tình vốn có.
Trích đoạn trên đây miêu tả vẻ đẹp trữ tình và cảm xúc của du khách trên dòng sông ấy. Trước hết là vẻ đẹp trữ tình của một quãng sông êm ả. Nhà văn miêu tả một cách vô tư, khách quan kết hợp với vài suy nghĩ cá nhân: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Thêm vào đó, nhà văn chọn lọc, miêu tả nhiều hình ảnh đẹp, sắc nét: “Một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”, “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”.
Đặc biệt, nhà văn còn dùng thủ pháp so sánh tu từ, nhân hóa tu từ, điệp cấu trúc cú pháp: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Dùng các thủ pháp này, một mặt nhà văn miêu tả vẻ đẹp thi vị, hoang dại, cổ kính của dòng sông. Mặt khác, nhà văn gợi được thần thái của nó. Hơn nữa, nhà văn dùng những nét chấm phá rất tài hoa của nghệ thuật hội họa, điêu khắc. Dễ thấy nhất là gam màu nhạt tạo cảm giác trữ tình thơ mộng. Đó là màu xanh non của lá ngô đầu mùa, của nõn búp, của cỏ gianh đồi núi. Đó là màu trắng đục của sương đêm. Đó là màu nhung của đầu con hươu thơ ngộ. Đó là màu “trắng như bạc rơi thoi” của bụng cá. Vả lại, không gian nơi đây rất tĩnh mịch, hoang vắng (ngoại trừ thanh âm của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sóng”).
Đã vậy, cách phối hợp thanh điệu, nhịp điệu của câu văn cũng rất tài hoa. Trong đoạn văn, các thanh bằng chiếm ưu thế, góp phần tạo nên cảm giác êm dịu, lắng đọng nơi chiều sâu cảm xúc. Chẳng hạn, câu mở đầu đoạn văn chỉ toàn thanh bằng: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”.
Bên cạnh đó, thưởng thức đoạn văn chúng ta còn bắt được mạch cảm xúc của du khách – nhân vật trữ tình – trên sông Đà. Cụ thể là sự rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp ngây ngất của thiên nhiên và chiêm ngưỡng vẻ đẹp ấy bằng đôi mắt của một người nghệ sĩ tài hoa. Nhìn cảnh ven sông lặng tờ, người nghệ sĩ liên tưởng tới quá khứ của quãng sông để so sánh, đối chiếu, khám phá ra vẻ đẹp hoang sơ, cổ tích, huyền thoại kì thú của nó cũng như vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn nảy nở, sinh sôi của cảnh vật thực tại. Hơn thế nữa, tình yêu thiên nhiên của người nghệ sĩ ấy rất nồng nàn, tha thiết, ở đây, có một hòa nhập cả tâm hồn mình vào thiên nhiên. Vì người nghệ sĩ ấy với thiên nhiên như một người bạn tri âm, tri kỷ nên rất thấu hiểu thiên nhiên. Thật vậy, tâm hồn nhân vật trữ tình như mơ màng lắng nghe cả tiếng hươu đang thủ thỉ: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đặc biệt, có sự thấu hiểu tâm trạng của dòng sông như thấu hiểu tâm tư, tình cảm cùa con người. Ấy là tâm trạng nhớ nhung da diết: “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Đó là tâm trạng quyến luyến, mong mỏi được nghe giọng nói của con người: “Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Ấy là tâm trạng vui mừng, sung sướng, tự hào khi được làm bạn đủ loại ghe thuyền xuôi ngược trên sóng nước: “Con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Ngoài ra, với trí tưởng tượng lãng mạn, bay bổng, người nghệ sĩ ấy mượn hai câu thơ của thi sĩ Tản Đà để làm đẹp thêm cái thơ mộng tình tứ của sông Đà:
Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.
Vả lại, chúng ta còn cảm nhận được niềm khao khát, mơ ước, hi vọng của người nghệ sĩ về một tương lai tốt đẹp cho vùng đất Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên trên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”. Phải chăng đây cũng là khát vọng chân chính của biết bao văn nghệ sĩ cùng thời Nguyễn Tuân về sự thay da đổi thịt của Tây Bắc?
Nhìn chung, dù độc giả chỉ thưởng thức một đoạn văn ngắn của bài tùy bút Người lái đò sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được rất rõ nét phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn Nguyễn Tuân. Tiêu biểu là phong cách “ngông” thể hiện ở sự tài hoa, uyên bác, lịch lãm trên câu chữ. Tuy tùy bút là một thể văn nhưng chúng ta thấy nhà văn còn phối hợp kiến thức của nhiều môn nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh, địa lí, lịch sử, sinh học, văn hóa, phong tục, võ thuật,…
Kiêng trích đoạn trên, sự am hiểu về hội họa, điêu khắc, động vật học, thực vật học, lịch sử học, địa lí học, mỹ học đã giúp nhà văn cảm nhận, đánh giá đúng vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc. Ở đây, sông Đà được miêu tả như một công trình thiên tạo tuyệt vời, đẹp trong chất thơ trữ tình, da diết. Mặt khác, nhà văn còn nhìn sự vật ở chiều lịch sử, gắn quá khứ, hiện tại với tương lai. Hơn nữa, vốn ngôn ngữ của nhà văn rất giàu, nhiều từ ngữ có giá trị tạo hình biểu cảm cao độ có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng như muốn ganh đua với tài hoa của tạo hóa. Phải là một người nghệ sĩ yêu nước da diết, có trí tưởng tượng đa dạng, phong phú, biết khám phá mê say, thưởng thức cái đẹp kỳ thú của tự nhiên mới có được những trang viết dạt dào khoái cảm thẩm mỹ đến thế!
Trên đây là một trong những trích đoạn đặc sắc nhất của tùy bút Người lái đò sông Đà. Cả tác phẩm cũng như trích đoạn đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình yêu thiên nhiên, đất nước mãnh liệt, yêu những con người lao dộng chân chính, hăng say và đặc biệt càng thêm yêu vùng đất Tây Bắc xa xôi nhưng giàu tiềm năng của Tổ quốc Việt Nam.
Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà (mẫu 2)
Nếu có một buổi tôi hỏi “Anh biết Nguyễn Tuân không ?”, anh đáp “Biết !” nhưng nếu tôi thêm “Anh biết tác phẩm Sông Đà không ?”, anh trả lời “Không !” thì tôi tin mình đã có đủ cơ sở để khẳng định lời anh thiếu chính xác. Thật thế, nói đến Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, người ta phải nhắc Vang bóng một thời cũng như sau cách mạng tháng Tám, nhắc đến Nguyễn Tuân người ta không thể quên tập tùy bút Sông Đà của ông.
“Hình như từ đời Lí, đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại, mà nó trôi ngược về ạuá khứ. Bởi người ngắm nó - người đang lênh đênh giữa dòng sông, đang chìm trong hoài niệm, mạch cảm xúc bơi ngược về với lịch sử dân tộc. Nguyễn Tuân cho phả vào câu chữ của mình, phủ lên bề mặt con sông Đà một lớp sương khói huyền hoặc, mơ hồ, xa xăm, đẹp và thơ mộng lạ kì. Bỗng dưng tôi nhớ mấy câu ca dao:
Mịt mù khỏi tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tăy Hồ.
Cũng là lãng đãng khói sương, nhưng rõ ràng không gian mặt hồ bị cô lập và có giới hạn hơn không gian con sông Đà của Nguyễn Tuân.
Đoạn văn trích cho ta thấy được vẻ đẹp thơ mộng tiềm tàng sức sống của sông Đà, xúc cảm rất chân thành của người ngắm cảnh và một lần nữa, buộc ta phải khâm phục, ngưỡng mộ ngòi bút tài hoa tài tử của Nguyễn Tuân, những chữ nghĩa, ví von có hồn có mắt được nâng niu, cẩn thận góp nhặt qua “ hàng trăm tuần trà, hàng ngàn lần dạo phố Hà Nội, đi Đông đi Tây chắt lọc lại, giữ lại cho chúng ta”.
Mình cũng là người Việt Nam, cũng biết yêu mến và rung cảm với cái của non sông gấm vóc Việt Nam, biết đâu mình cũng có thể viết nên những dòng suy nghĩ đậm đà chất thơ theo tấm gương sáng tạo của tác giả tùy bút Sông Đà.
Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà(mẫu 3)
Người lái đò sông Đà là một bút kí rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà (1960). Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nổi bật là “hung bạo và trữ tình” đã được khắc họa thật đậm nét. Để có thể khách thể hóa được đối tượng và “đóng đinh” nó vào trí nhớ độc giả, Nguyễn Tuân đã tung ra nhiều “độc chiêu" ngôn ngữ tưởng chỉ mình không mới có. Khi miêu tả những con thác vô cùng “độc dữ, nham hiểm”, câu văn của ông mang nhịp diệu dồn dập, kích thích. Nhưng khi ca ngợi “con sông Đà gợi cảm”, câu văn lại thư duỗi hết sức êm ả nghe như một tiếng hát ngân nga. Văn Nguyễn Tuân gồm chứa cả hai cực đó là cực thứ hai – cực trữ tình mềm mại và thấm đượm một thứ “mĩ học hoài cựu” độc đáo được thể hiện rất rõ trong đoạn văn từ câu “Thuyền trôi trên sông” đến câu… “khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Nội dung của đoạn văn là nói về vẻ thơ mộng của sông Đà ở quãng trung lưu. Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm và câu văn mở đầu vì thế cũng trở nên lâng lâng, mơ màng, không vướng víu với một thanh trắc nào: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Cái “lặng lờ” được nhắc đi nhắc lại mấy lần theo một kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ: “Cảnh ven sông ở đây lặng lờ, hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ như thế là thôi”, nghĩa là không thể lặng lờ hơn được nữa! Thiên nhiên thật hài hòa và mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, dành riêng cho con mắt nhìn “xanh non” của tác giả những hình ảnh kì thú: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Cảnh đã làm cho vị tình nhân của non nước Đà giang hết sức xúc động. Ông thấy cần phải nói thêm nữa đề diễn tả cho cùng kiệt đặc tính của đối tượng: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Những so sánh lạ lầm, chính xác mà cùng thật Nguyễn Tuân! Nhà văn đã đi ngược thói quen, đem giải thích một đặc tính vốn đã khá trừu tượng bằng những khái niệm trừu tượng hơn nữa, khiến cho cảm giác trực tiếp bỗng mở ra những liên tưởng trùng trùng, bát ngát. Đi từ “hoang dại”, “hồn nhièn” là cái còn có thể cảm nhận được, đến “tiền sử” và “nỗi niềm cổ tích ngày xưa”, câu văn đã cập bờ siêu cảm giác, đòi hỏi người đọc phải tiếp nhận nó bằng siêu giác quan chứ không phải bằng giác quan bình thường. Trong câu tiếp theo: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê cúa một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, một mặt nhà văn bộc lộ thèm ước muốn có tiếng còi kéo mình ra khói mạng lưới vô hình mà quấn chặt của giấc mơ xưa, mặt khác tạo nên một cái cớ tuyệt điệu để biến cả một đoạn văn thành một bài thơ siêu thực mà trong đó giữa người với cảnh có sự tương thông rất đỗi huyền nhiệm và cái hư phút chốc biến thành cái thực: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ dừ trôi trên một mùi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cùng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?” Người mơ cảnh cũng mơ, và cái thời điểm “ông khách sông Đà” bỗng nghe ra tiếng chú hươu gọi hỏi chính là đỉnh điểm của giấc mơ đó. Nhà văn đã khéo tạo được một giấc mơ ngay giữa ban ngày để rồi sau đó như sực tỉnh với tiếng động của “Đàn cá dầm xanh quầy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuối mất đàn hươu vụt biến”. Phút sực tỉnh cũng là phút nhà văn hiến cho độc giả một hình ảnh cực kỳ sống động mà ai được một lần thấy trong đời hẳn phải nhớ mãi. Bút pháp mượn cái động để tả cái tĩnh đã được vận dụng ở đây hết sức đắc địa. Cảnh tĩnh lặng đến mức chỉ tiếng cá quẫy cùng đủ khiến ta phải giật mình. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, cái tĩnh không đồng nghĩa với sự phẳng lặng, đơn điệu mà vẫn luôn hàm chứa sự bất ngờ, vẫn không ngớt biến hóa. Theo con thuyền thả trôi, điểm nhìn của nhà văn liên tục di động và “di động” hơn nữa là cái nhìn của Nguyễn Tuân. Có vẻ như ông muốn học cách nhìn của “con hươu thơ ngộ”, “vểnh tai”, “nhìn không chớp mắt" những sự vật như hiện lên từ thế giới cổ tích, sau đó truyền sự bỡ ngỡ lại cho độc giả qua những từ dùng độc đáo, sáng tạo, kích thích rất mạnh giác quan và vốn ngôn ngữ của chúng ta: “thơ ngộ”, “đầu nhung”, “áng cỏ sương”, “tiếng còi sương…”. Vật nào cảnh nào được cây đùa thần của nhà văn động đến đều cựa quậy, không chịu ép mình làm một tiêu bản dẹt. Có lúc, Nguyễn Tuân như vượt qua lề luật của phép diễn đạt thông thường để viết: “Đàn cá đầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Có thể nói câu văn kia đã được viết theo bút pháp của hội họa “lập thể” mà mục đích của nó là muốn cùng một lúc thấy được sự vật ở nhiều chiều. Trước một nét miêu tả rất cô đọng như thế, ta không chỉ thấy mà còn nghe – thấy cái lấp lánh ánh bạc của bụng cá và nghe tiếng quẫy nước rộn ràng vang ngân.
Nguyễn Tuân là người hết sức nặng tình với con sông đất nước. Trong khi thưởng ngoạn vẻ đẹp thơ mộng của sông Đà, trong ông dậy lên bao mối liên tưởng về lịch sử, dậy lên cảm giác hàm ơn sâu xa đối với cổ nhân. Việc ông nhắc tới đời Lí, đời Trần, đời Lê và câu thơ của Tản Đà cho thấy rõ một thiên hướng bộc lộ cảm xúc rất đặc thù của người từng viết Vang bóng một thời. Nhưng trước vẻ “hoang dại” của bờ sông Đà, nhà văn cũng có những suy nghĩ mang tính tích cực của người công dân mới, mong cuộc sống hiện đại tỏa chiếu ánh sáng lên cả chốn sơn cùng thuỷ tận. “Tiếng còi sương” xuất hiện ở đây ngân xa như một khát vọng, nó hài hòa với cảm hứng lịch sử, tạo cho đoạn văn một vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa hiện đại. Đối với Nguyễn Tuân, những cái gì mang trong nó hơi thở ấm áp của cuộc đời đều để thương, để nhớ, để lưu luyến cho ông. Trong những câu cuối của đoạn văn này, ông đã trải lòng mình ra với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe và xúc động: “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Qua mỗi dặm đường đất nước, nhà văn đều thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau rất chặt chẽ.
Yêu sông Đà cũng chính là yêu Tổ quốc và yêu con người Việt Nam – những “đồng tác giả” của trăm vẻ đẹp từng làm đắm đuối lòng ta trên “trăm dáng sông xuôi” (ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm).
Chỉ mới qua một đoạn trích ngắn ngủi, ta chưa có điều kiện thấy hết những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Nhưng chừng ấy tưởng cũng đã đủ để ta quý trọng một tài năng, một tấm lòng, một Nguyễn Tuân – con người suốt cuộc đời đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để sáng tạo nên những áng văn đẹp, làm phong phú, giàu có thêm đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.
Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà (mẫu 4)
Sau khi miêu tả về tính cách hung bạo, dữ dội của sông Đà qua các chi tiết về nước, đá, sóng, ở những quãng sông hẹp và những cái hút nước khủng khiếp, ngòi bút của tác giả đã tập trung miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông. Nét dịu dàng đó đã được thể hiện qua dáng vẻ và tâm hồn. Với ngòi bút tài hoa, uyên bác cùng sự quan sát tinh tế, tác giả đã ví dòng sông với vẻ đẹp của một người thiếu nữ kiều diễm: "con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai". Vẻ đẹp đó đã được cụ thể hóa hơn nữa thông qua những chi tiết quang cảnh ven sông. Với điểm nhìn từ con thuyền: "Thuyền tôi trôi trên sống Đà", dòng sông đã được quan sát và miêu tả một cách chi tiết, cụ thể. Dưới ngòi bút của tác giả, quang cảnh ven sông hiện lên với sự êm đềm, tĩnh lặng: "Cảnh ven sông ở đây lặng như tờ". Nguyễn Tuân đã vận dụng tối đa bút lực để phác họa những nét vẽ chi tiết về vẻ "lặng như tờ" đó hệt như một người họa sĩ tài hoa. Những hình ảnh về "một nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa", "cỏ tranh đang ra những búp nõn" cho thấy cảnh vật được miêu tả qua vẻ đẹp của sự non tơ, tươi mới và tràn đầy sức sống. Giữa không gian thơ mộng, tĩnh lặng đó, chỉ có duy nhất hình ảnh một đàn hươu "cúi đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương đêm" khiến cho thiên nhiên hiện lên trong mối giao hòa, gắn kết.
Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong sự tươi mới, tinh khôi đã đưa tác giả vào một không gian mang đầy sự huyền ảo, "hoang dại như một bờ tiền sử", "hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Đằng sau những cảm nhận vô cùng tinh tế đó, chúng ta có thể thấy được tâm hồn của một người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác đã hòa mình vào thiên nhiên cùng mây trời non nước sông Đà. Tác giả đã cảm nhận hết vẻ tinh khôi, thần thái tràn trề sức sống của cảnh vật và bắt trọn từng khoảnh khắc và mọi chuyển động: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò", rồi "hươu vểnh tai". Hình ảnh này gợi cho chúng ta nhớ đến chú nai vàng trong những câu thơ của tác giả Lưu Trọng Lư:
"Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô"
Chú hươu trong những câu văn của Nguyễn Tuân hay chú nai vàng đang lắng nghe "Tiếng thu" trong thơ Lưu Trọng Lư đều gợi lên sự tinh khôi, thuần khiết của thiên nhiên. Sau khi miêu tả quanh cảnh ven sông, tác giả tập trung miêu tả cảnh sắc dưới lòng sông. Hàng loạt những thực thể hiện lên với sắc màu và dáng vẻ khác nhau trong sự ví von, so sánh tinh tế và độc đáo: "Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi". Và rồi dòng sông đã được nhân hóa với những nét tính cách của con người, trôi chậm như "nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc".
Như vậy, thông qua đoạn văn của tác giả Nguyễn Tuân, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà nói riêng và của thiên nhiên Tây Bắc nói chung. Đồng thời thấy được tình yêu thiên nhiên cũng như những nét đặc sắc tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà (mẫu 5)
Từ Vang bóng một thời (1940) đến Sông Đà (1960), con đường sáng tạo văn chương cùa Nguyễn Tuân đã trải qua 20 năm tròn. Tùy bút Sông Đà làm cho chân dung văn học của Nguyễn Tuân thêm tươi sáng, rạng rỡ. Với 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, Sông Đà đã khẳng định vị trí vẻ vang của Nguyễn Tuân trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, tô đậm một phong cách nghệ thuật uyên bác, độc đáo và tài hoa để ta thêm yêu mến tự hào.
Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân trên một tầm cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường, Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt đẹp mà ông gọi đó là “chất vàng mười” của tâm hồn. Là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, ông nói về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi và sông, về cây cỏ trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng.
Mơ màng nhìn dòng sông, nghe nước êm trôi “lặng tờ”, ông khách sông Đà bâng khuâng nhìn xa, nhìn gần cảnh ven sông. Bao trùm cảnh vật là một màu xanh hoang sơ, hồn nhiên. Cũng thấy nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, đã có dấu ấn của con người in trên màu xanh mỡ màng ấy, nhưng thật vô cùng ngạc nhiên “mà tịnh không một bóng người”. Chỉ có đồi gianh nối tiếp đồi gianh trùng điệp với những “nõn búp” ngon lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện trên màu xanh bát ngát những đồi gianh là một nét vẽ tài hoa làm cho bức tranh thiên nhiên sông Đà đượm màu “hoang dại” và “cổ tích”. Không phái chú nai vàng ngơ ngác trong cái xào xạc của lá thu rơi thuở nào : mà ở đây chì có: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới có cái nhìn “xanh non” ấy, mới có cách nói, cách tả độc đáo ấy; ông đã thả hồn mình vào linh vật, mà yêu mến, nâng niu. Câu văn của ông tưởng như là hai vế của của một câu song quan trong bài phú lưu thúy: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử;
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật mà là trừu tượng hóa, thơ mộng hóa cảnh vật. “Bờ tiền sử”, “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” là chữ của nhà văn bậc thầy về ngôn ngữ này. Nguyễn Tuân không dựa vào trực giác để so sánh, ông ta đã dùng tưởng tượng để tạo nên những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và rất kì thú, gieo vào tâm hồn người đọc bao cảm xúc, để cùng ông tận hưởng cái vẻ đẹp “hoang dại” và “hồn nhiên” của Đà Giang.
Đó là dư vị, là nhã thú mà ta cảm nhận được qua tiếng còi xúp lê mơ màng. Cuộc đối thoại giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ đích thực là một bài thơ trữ tình kì diệu, một giấc mơ chập chờn chơi vơi trong cái lặng tờ của ven sông. Cái tĩnh lặng của khoảnh khắc giao cảm thần tiên giữa ông khách sông Đà với đàn hươu núi đã lên đến đỉnh điểm. Trên cái nền xanh của cò sương, hươu chăm chăm nhìn người như dò hỏi. Lòng người và tạo vật cùng rung động: “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhin tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò”. Hươu nhìn người mà ngơ ngác Người nhìn đàn hươu mà lâng lâng chìm vào mộng tưởng. Không một tiếng động nhỏ. Cả một không gian nghệ thuật trở nên tĩnh lặng, thiêng liêng, nhiệm màu. Hươu hỏi người hay người tự hỏi? Một giả định vừa thực vừa mộng ảo, siêu thực mà lãng mạn.
Cảnh biến đổi nên câu văn Nguyễn Tuân cũng co duỗi biến hóa. Một tiếng động nhỏ của con cá dầm xanh như làm cho ông khách sông Đà chợt tỉnh mộng. Mượn cái động để tả cái tĩnh được vận dụng sáng tạo, mở ra một không gian nghệ thuật mới. Cá quầy, đàn hươu vụt biến, cá vọt lên mặt sông “bụng trắng như bạc rơi thoi”. Như một đoạn phim chuyển cảnh từ tĩnh qua động để rồi tĩnh lặng hơn. Hươu núi vụt biến, cá bụng trắng vượt lên rồi rơi xuống, lặn xuống; trước mắt du khách chỉ còn là một màu xanh của nước, màu xanh cùa cỏ gianh đồi núi. Câu văn “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” là một câu văn đẹp, có âm thanh, có màu sắc, có cái nghe thấy, có vật nhìn thấy, có điều cảm thấy. Hình ảnh so sánh “đàn cá. bụng trắng như bạc rơi thoi” đầy chất thơ vừa gợi tả sắc trắng (như bạc), vừa chỉ rõ dáng hình thon dài (như thoi) của đàn cá dầm xanh.
Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà (mẫu 6)
Người lái đò sông Đà là một bút kí rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà (1960). Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nối bật là “hung bạo và trữ tình” đã được khắc họa thật đậm nét. Đế có thể khách thể hóa được đối tượng và “đóng đinh” nó vào trí nhớ độc giả, Nguyên Tuân đã tung ra nhiều “độc chiêu” ngôn ngữ tưởng chỉ mình không mới có. Khi miêu tả những con thác vô cùng “độc dữ, nham hiểm”, câu văn của ông mang nhịp diệu dồn dập, kích thích. Nhưng khi ca ngợi “con sông Đà gợi cảm”, câu văn lại thư duỗi hết sức êm ả nghe như một tiếng hát ngân nga. Văn Nguyễn Tuân gồm chứa cả hai cực đó là cực thứ hai – cực trữ tình mềm mại và thấm đượm một thứ “mĩ học hoài cựu” độc đáo được thể hiện rất rõ trong đoạn văn từ câu “Thuyền trôi trên sông” đến câu… “khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Nội dung của đoạn văn là nói về vẻ thơ mộng của sông Đà ở quảng trung lưu. Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm và câu văn mở đầu vì thế cùng trở nên lâng lâng, mơ màng, không vướng víu với một thanh trắc nào: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Cái “lặng lờ” được nhắc đi nhắc lại mấy lần theo một kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ: “Cảnh ven sông ở đây lặng lờ, hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ như thế là thôi”, nghĩa là không thể lặng lờ hơn được nữa! Thiên nhiên thật hài hòa và mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, dành riêng cho con mắt nhìn “xanh non” của tác giả những hình ảnh kì thú: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Cảnh đã làm cho vị tình nhân của non nước Đà giang hết sức xúc động. Ông thấy cần phải nói thêm nữa đề diền tả cho cùng kiệt đặc tính của đối tượng: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Những so sánh lạ lầm, chính xác mà cùng thật Nguyễn Tuân! Nhà văn đã đi ngược thói quen, đem giải thích một đặc tính vốn đã khá trừu tượng bằng nhửng khái niệm trừu tượng hơn nữa, khiến cho cảm giác trực tiếp bỗng mở ra nhửng iièn tưởng trùng trùng, bát ngát. Đi từ “hoang dại”, “hồn nhièn” là cái còn có thể cảm nhận được, đến “tiền sử” và “nỗi niềm cổ tích ngày xưa”, câu văn đã cập bờ siêu cảm giác, đòi hỏi người đọc phải tiếp nhận nó bằng siêu giác quan chứ không phải bằng giác quan bình thường. Trong câu tiếp theo: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê cúa một chuyên xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, một mặt nhà văn bộc lộ thèm ước muốn có tiếng còi kéo mình ra khói mạng lưới vò hình mà quấn chật của giấc mơ xưa, mặt khác tạo nên một cái cớ tuyệt điệu để biến cả một đoạn văn thành một bài thơ siêu thực mà trong đó giữa người với cảnh có sự tương thông rất đỗi huyền nhiệm và cái hư phút chốc biến thành cái thực: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ dừ trôi trên một mùi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cùng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?” Người mơ cảnh cũng mơ, và cái thời điểm “ông khách sông Đà” bỗng nghe ra tiếng chú hươu gọi hỏi chính là đỉnh điểm của giấc mơ đó. Nhà văn đã khéo tạo được một giấc mơ ngay giữa ban ngày để rồi sau đó như sực tỉnh với tiếng động của “Đàn cá dầm xanh quầy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuối mất đàn hươu vụt biến”. Phút sực tỉnh cùng là phút nhà văn hiến cho độc giả một hình ảnh cực kỳ sống động mà ai được một lần thấy trong đời hẳn phải nhớ mải. Bút pháp mượn cái động để tả cái tĩnh đã được vận dựng ở đây hết sức đắc địa. Cảnh tĩnh lặng đến mức chỉ tiếng cá quẫy cùng đủ khiến ta phải giật mình. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, cái tĩnh không đồng nghĩa với sự phẳng lặng, đơn điệu mà vẫn luôn hàm chứa sự bất ngờ, vẫn không ngớt biến hóa. Theo con thuyền thả trôi, điểm nhìn của nhà văn liên tục di động và “đi động” hơn nữa là cái nhìn của Nguyễn Tuân. Có vẻ như ông muốn học cách nhìn của “con hươu thơ ngộ”, “vểnh tai”, “nhìn không chớp mắt” những sự vật như hiện lên từ thế giới cổ tích, sau đó truyền sự bỡ ngỡ lại cho độc giả qua những từ dùng độc đáo, sáng tạo, kích thích rất mạnh giác quan và vốn ngôn ngữ của chúng ta: “thơ ngộ”, “đầu nhung”, “áng cỏ sương”, “tiếng còi sương…”. Vật nào cảnh nào được cây đùa thần của nhà văn động đến đều cựa quậy, không chịu ép mình làm một tiêu bản dẹt. Có lúc, Nguyễn Tuân như vượt qua lề luật của phép diễn đạt thông thường để viết: “Đàn cá đầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Có thể nói câu văn kia đã được viết theo bút pháp của hội họa “lập thể” mà mục đích của nó là muốn cùng một lúc thấy được sự vật ở nhiều chiều. Trước một nét miêu tả rất cô đọng như thế, ta không chỉ thấy mà còn nghe – thấy cái lấp lánh ánh bạc của bụng cá và nghe tiếng quẫy nước rộn ràng vang ngân.
Nguyễn Tuân là người hết sức nặng tình với con sông đất nước. Trong khi thưởng ngoạn vẻ đẹp thơ mộng của Sông Đà, trong ông dậy lên bao mối liên tưởng về lịch sử, dậy lên cảm giác hàm ơn sâu xa đối với cổ nhân. Việc ông nhắc tới đời Lí, đời Trần, đời Lê và câu thơ của Tản Đà cho thấy rỏ một thiên hướng bộc lộ cảm xúc rất đặc thù của người từng viết Vang bóng một thời. Nhưng trước vẻ “hoang dại” của bờ sông Đà, nhà văn cũng có những suy nghĩ mang tính tích cực của người công dân mới, mong cuộc sống hiện đại tỏa chiếu ánh sáng lên cả chốn sơn cùng thuỷ tận. “Tiếng còi sương” xuất hiện ở đây ngân xa như một khát vọng, nó hài hòa với cảm hứng lịch sử, tạo cho đoạn văn một vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa hiện đại. Đối với Nguyễn Tuân, những cái gì mang trong nó hơi thở ấm áp của cuộc đời đều để thương, để nhớ, để lưu luyến cho ông. Trong những câu cuối của đoạn văn này, ông đã trải lòng mình ra với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe và xúc động: “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dồng trên”. Qua mỗi dặm đường đất nước, nhà vãn đều thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau rất chặt chẽ.
Yêu sông Đà cũng chính là yêu Tổ quốc và yêu con người Việt Nam – những “đồng tác giả” của trăm vẻ đẹp từng làm đắm đuối lòng ta trên “trăm dáng sông xuôi” (ý thơ của Ngụ/ễn Khoa Điềm).
Chỉ mới qua một đoạn trích ngắn ngủi, ta chưa có điều kiện thấy hết những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Nhưng chừng ấy tưởng cũng đã đủ để ta quý trọng một tài năng, một tấm lòng, một Nguyễn Tuân – con người suốt cuộc đời đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để sáng tạo nên những áng văn đẹp, làm phong phú, giàu có thêm đời sống tinh thần của tất cả độc giả
Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà (mẫu 7)
Trong cuộc kháng chiến mất còn của dân tộc, những dòng sông, cánh đồng, mảnh đất, ngôi làng đã đồng hành sống và chiến đấu với con người và hóa thân vào văn chương thành những vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Một sông Mã gầm khan trầm uất, một sông Đuống cuộn trôi mang bao ảnh hình xứ sở…Đến với Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta cùng tác giả vượt thác xuống ghềnh và rồi thả thuyền hồn trôi xuôi trong một đoạn tả sông Đà trữ tình: “ Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên dòng trên”.
Nếu ví người lái đòsông Đànhư bản trường ca với những cung bậc khi mãnh liệt lúc réo rắt ngân vang thì đoạn văn trên là một khúc ca êm ái nhất. Không những thế đoạn văn còn như một bài thơ, với những ý tưởng vần điệu nhịp nhàng, mềm mại. Ở những giai đoạn trên, ta bắt gặp một con thuyền chiến của người lái đò, còn đây là một con thuyền thơ của một hồn văn đầy chất thơ. Nhưng phải chăng vì cả ông lái đò và tác giả đều là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình nên cả hai con thuyền đều là thuyền thơ, chỉ khác là một tứ thơ dữ dội, khốc liệt và một tứ thơ êm đềm, dịu dàng. Hòa vào tứ thơ ấy, không gian liên tưởng của người đọc cứ mở ra mãi nhờ những cách so sáng. Các nhà văn khác thường so sáng cụ thể hóa sự vật còn Nguyễn Tuân, ông so sánh để làm vạn vật trở nên kích thích, mở rộng trí tưởng tượng. Hãy nghe cách so sáng của ông: “ Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “ bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cố tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “ bờ sông” gợi đến bao cái vô hình “ bờ tiền sử”, “ nổi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu trên nghe hoang vắng, xa xăm. Câu dưới òa ập, xôn xao cảm xúc. Tác giả nhắc nhở tuổi thơ, ý văn tiếp nối với đoạn văn trên khui tả sông Đà “ loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Tuổi thơ như khoảng thời gian thần tiên trong hồn người. Và đi bên tuổi thơ của mỗi con người là tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng nhận của việc an cư lạc nghiệp, của biết bao biến đổi thăng trầm của lịch sử. Ở trên, Nguyễn Tuân đã nhìn sự vật trong chiều sâu lịch sử, trong ý thức hướng về truyền thống khi nói cái “ lặng tờ” của cảnh sông. Dường như dòng sông lặng tờ lại càng lặng tờ hơn bởi bề dày lịch sử của mấy trăm năm cộng lại. Tiếp nối sức mạnh quá khứ là hình ảnh bờ sông – bờ tiền sử. Và khi nhà văn “ them được giật mình vì tiếng còn xe lửa” thì tương lai đã náo nức reo vui. Cứ thế văn Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới này đến thế giới khác một cách uyển chuyển khéo léo. Và phải chăng, Nguyễn Tuân đã viết văn đúng như quan niệm về thơ của ông “ từ một cái hữu hình nó thức dậy được những cái vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở ra được một cái diện không gian thời gian”, khi so sánh bờ sông như vậy? Ngoài ra, ông còn đem vật thể so sáng với tình cảm, cảm xúc trong hình ảnh” một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa hay như “ Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương…Con sông như đang lắng nghe…” Nguyễn Tuân đã nhập thân vào dòng sông để lắng nghe và xúc động, lòng dâng dầy chất thơ. Mơ mộng thay khi nối tiếp những vần thơ bập bềnh sông nước của Tản Đà là những cảm xúc rất thơ như thế! Thế giới vật chất, thế giới tinh thần xa xăm cứ thế mà nối qua những liên tưởng của nhà văn. Con sông đang “ nhớ thương”, đang “ lắng nghe” hay chính nhà văn đang thương nhớ, lắng nghe những tâm tình của cuộc sống?
Chất thơ của đoạn trích còn thể hiện ở cách viết văn như thơ của Nguyễn Tuân. Câu mở đoạn “ Thuyền tôi trôi trên sông Đà” êm êm những thanh bằng như một câu lục trong thơ lục bát. Vần lưng “ tôi trôi” và điệp âm “ t” gợi hình ảnh con thuyền nổi nênh trên mặt sông. Những thanh ngang nằm giữa hai thanh bằng hai đầu câu văn như tạo một khoảng ngưng đọng cho cảm xúc. Thuyền trôi mà như không trôi, như tình cảm cứ đọng mãi, chất chứa trong thuyền. Và cụm từ “ thuyền tôi trôi” ấy cứ như một điệp khúc bằng lặng trong suốt cả đoạn văn. Đây là một kiểu trùng rất đặc trưng của thơ hay cũng là sự điệp trùng của cảm xúc. “ Thuyền tôi trôi qua một nương ngô..”, “ thuyền tôi trôi trên dải sông Đà…” tưởng như thuyền hồn người đọc cũng xuôi lặng theo dòng tâm tư khởi toàn thanh bằng nhẹ bỗng như thế. Hồn người như tan ra hòa cùng cảnh sắc. Con thuyền cũng trôi trên một dòng sông cũng lững lờ trôi theo những câu văn ngắn, chảy dài, chảy dài theo những câu văn dài. Có phải câu văn cứ khi dài, khi ngắn linh hoạt như dòng chảy lúc nhanh lúc chậm của con sông? Câu “ Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” xao động với những thanh trắc nhỏ nhẹ cố như khép lại nén lại cảm xúc đang dân trào. Ngoài câu văn mở đầu với sáu thanh bằng còn có vế câu nhiều thanh bằng nữa như “ chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên…”. Những thanh bằng ấy như cố lắng xuống để ghi nhận trong khoảnh khắc ánh nhìn của chú nai tơ. Và hai từ láy “ chăm chăm”, “ lừ lừ” chỉ trong một vế câu ngắn như đong đầy cảm xúc. Ngoài ra còn có những từ láy khác như “ lững lờ”, xa xôi, êm êm” đều gợi cảm, tạo nhạc. Bên cạnh một thứ nhạc thơ thấm đẫm đoạn văn là một điệu nhạc tâm hồn cứ khe khẽ hát lên, một chất thơ trở đầy tâm trạng.
Chất thơ mơ mộng còn bao trùm cả cảnh sông bằng những ảnh nai tơ, mỡ màng nhất: “ lá ngô non đầu mùa”, nõn búp, búp cỏ gianh, những con vật hiền lành: con hươu thơ ngộ, đàn cá dâm xanh. Cảnh sắc thơ như từ một thế giới cổ tích nào đấy hiện về, vừa chân thực mà hư ảo, gần gũi mà xa xăm, bảng lảng một lớp sương huyền hồ của “ cỏ gianh đẫm sương đêm”, “ áng cỏ sương” và cả “ tiếng còi sương”. Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc sống. Những câu văn tươi xanh như thức dậy phần non tơ nhất của hồn người, thức dậy một ý thơ của Xuân Diệu “ Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non”. Có t” thể hình dung đây là một buổi sớm mùa xuân tinh khôi, mùa xuân của cuộc sống và mùa xuân của lòng người. Mỗi câu văn “ đẫm sương” ấy là một nét vẽ, tưởng như hòa vào nhau song tách bạch rất rõ rang. Một màn sương cứ rải nhẹ trong tâm trí độc giả, như nhắc nhở bao huyền thoại xa xưa, bao không gian cổ tích diễm ảo. Ta như cùng Nguyễn Tuân ngây ngất đắm say những nét diệu kỳ nhất của tạo hóa. Có một sự sống của mình trong ba thanh trắc “ nhú”, “ mấy”, “ lá”, có một cái gì mềm mại trong “ đầu nhung”. Và ấn tượng nhất là cỏ, ta chỉ nghe “ ngọn cỏ”, “ sóng cỏ” nhưng “ búp cỏ”, “ áng cỏ sương” thì có lẽ chưa bao giờ. Nếu thi hào dân tộc Nguyễn Du tả ngọn cỏ như một minh chứng cho sự đồng điệu đến kỳ lạ của thiên nhiên đối với con người thì Nguyễn Tuân nay đã đưa ngọn cỏ lên khía cạnh thơ nhất, đẹp nhất. Màu xanh của bờ đồng cỏ mênh mông đã nhuộm non cả đoạn văn – bài thơ
của Nguyễn Tuân.
Bài thơ cuối ấy còn đạt đến chất thơ tuyệt vời bằng nghệ thuật cổ điển lấy động tả tĩnh. Khung cảnh lặng tờ đến nỗi tác giả cảm nhận được cả tiếng cá quẫy. “ Tiếng cá đập nước sông đuồi mất đàn hươu vụt biến”. Phải chăng đó cũng là khoảng lặng trong tâm hồn của Nguyễn Tuân để hứng lấy những âm thanh nên thơ của sự sống, một sự sống trỗi mình trong lá ngô non, búp cỏ non mạnh mẽ trong tiếng đập nước của cá? Đàn hươu hiện ra chạy mất, phải chăng trong đoạn văn mơ mộng của Nguyễn Tuân, mọi vật đều trở nê hiền lành đến mức thơ ngây nhất? Từ một cái diện mênh mang một điệp khúc xanh của ngô non, áng có, nhà văn điểm vào sắc trắng của bụng cá. Nghệ thuật hội họa cổ điển đã đuộc vận dụng, khám phá mọi vẻ thơ ngây của cuộc sống.
Trong không gian u huyền ấy bỗng tác giả “ thèm được giật mình vì một tiếng còi sương”. Đặt vào hoàn cảnh chưa có chuyến tàu nào đi Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu., câu văn như một tiếng reo náo nức của tác giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc ( 1958 – 1960). Khi ấy, Tố Hữu đã cho ra đời những vần thơ đẹp.
Yêu biết mấy những dòng song bát ngátGiữa đôi bờ dào dạt lúa ngô nonYêu biết mấy những con đường ca hát
Qua công trường mới dựng mái nhà son.
Tiếng còi sương là ảo, là âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước vọng rất thực tế của nhà văn. Thèm được nghe một tiếng còi xa lửa đã quý, như Chế Lan Viên.
Mắt ta them mái ngói đỏ trăm ga.( Tiếng hát con tàu)
Nhưng “ them giật mình” thì lại càng quý hơn bởi Nguyễn Tuân khao khát cái cảm giác khi được nghe tiếng còi Tây Bắc mở mang. Ta đã từng trân trọng cái giật mình vì phẩm giá “ thương mình xót xa” của Kiều, cảm thông cái giật mình hoài nhớ của Tú Xương khi “ vẳng nghe tiếng ếch” thì nay ta lại nâng niu thêm một cái giật mình ước tương lai của tác giả sông Đà. Và như thế đoạn văn của sông Đà của Nguyễn Tuân đã là văn chương mới của một thời đại mới. Trước Cách mạng, ông đã từng “ xê dịch” để tìm những cảm giác mới lạ, để trốn tránh trách nhiệm thì sau ngày đổi đời của dân tộc, ông lại đi để tìm hình ảnh quê hương và nhận chân trách nhiệm của mình. Thưởng ngoạn nhưng không quên vì người, vì cuộc sống mới, quả thật văn Nguyễn Tuân đã “ hợp lưu” với lòng người đọc dễ dàng nhờ những suy nghĩ như thế. Hòa cùng tiếng hát của con tàu thơ Chế Lan Viên, một tiếng còi sương của Nguyễn Tuân, mái nhà sơn của Tố Hữu, “ Ngói mới” của Xuân Diệu… đã góp thành sắc mới của thơ văn phản ánh màu mới của quê hương đất nước. Cuộc sống mới đã ngấm vào cảnh vật, và con hươn thơ như cũng lắng nghe tiếng còi sương. Cảnh vật có màu sắc, âm thanh dù là trong tâm tưởng.
Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất thơ: “ Dải sông Đà bọt nước lên đênh. Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết sức trữ tình của nhà thơ quê hương sông Đà, sống hết lòng với sông Đà. Câu thơ ấy hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân đã “ đề thơ” vào sóng nước Đà giang như khẳng định sự tồn tại của một sinh thế có hồi, coi sông Đà như một bạn đồng hành? Đưa vào câu thơ của Tản Đà, đoạn văn, bỗng dậy lên hơi thở nồng ấm, quấn quýt của tình người, tình yêu. Tình đã nồng cho nên những câu văn tiếp theo chất chứa cảm xúc “ nhớ thương”, “ lắng nghe những giọng nói êm êm”.
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của sông núi, và có một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn chương đã làm cho thiên nhiên đẹp lên bội phần. Con sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng với con người cũng như áng văn đẹp của Nguyễn Tuân sẽ luôn là hành trang của mỗi người, của dân tộc đi tới trong cuộc sống hôm nay.
Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà (mẫu 8)
Người lái đò Sông Đà là một bút kí rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà (1960). Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nổi bật là “hung bạo và trữ tình” đã được khắc hoạ thật đậm nét. Để có thể khách thể hóa được đối tượng và “đóng đinh” nó vào trí nhớ độc giả, Nguyễn Tuân đã tung ra nhiều “độc chiêu” ngôn ngữ tưởng chi mình không mới có. Khi miêu tả những con thác vô cùng “độc dữ, nham hiểm”, câu văn của ông mang nhịp điệu dồn dập, kích thích. Nhưng khi ca ngợi “con sông Đà gợi cảm”, câu văn lại thư duỗi hết sức êm ả nghe như một tiếng hát ngân nga. Văn Nguyễn Tuân gồm chứa cả hai cực đó là cực thứ hai – cực trữ tình mềm mại và thấm đượm một thứ “mĩ học hoài cựu” độc đáo được thể hiện rất rõ trong đoạn văn từ câu “Thuyền trôi trên sông” đến câu… “khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Nội dung của đoạn văn là nói về vẻ thơ mộng của Sông Đà ở quãng trung lưu. Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm và câu văn mở đầu vì thế cũng trở nên lâng lâng, mơ màng, không vướng víu với một thanh trắc nào: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Cái ý “lặng lờ” được nhắc đi nhắc lại mấy lần theo một kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ: “Cảnh ven sông ở đây lặng lờ, hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ như thế là thôi”, nghĩa là không thể lặng lờ hơn được nữa!
Thiên nhiên thật hài hòa và mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, dành riêng cho con mắt nhìn “xanh non” của tác giả những hình ảnh kì thú: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” Cảnh đã làm cho vị tình nhân của non nước Đà giang hết sức xúc động. Ông thấy cần phải nói thêm nữa để diễn tả cho cùng kiệt đặc tính của đối tượng: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”.
Những so sánh lạ lẫm, chính xác mà cũng thật Nguyễn Tuân! Nhà văn đã đi ngược thói quen, đem giải thích một đặc tính vốn đã khá trừu tượng bằng những khái niệm trừu tượng hơn nữa, khiến cho cảm giác trực tiếp bỗng mở ra những liên tưởng trùng trùng, bát ngát. Đi từ “hoang dại”, “hồn nhiên” là cái còn có thể cảm nhận được, đến “tiền sử” và “nỗi niềm cổ tích ngày xưa”, câu văn đã cập bờ siêu cảm giác, đòi hỏi người đọc phải tiếp nhận nó bằng siêu giác quan chứ không phải bằng giác quan bình thường.
Trong câu tiếp theo: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, một mặt nhà văn bộc lộ thèm ước muốn có tiếng còi kéo mình ra khỏi mạng lưới vô hình mà quấn chặt của giấc mơ xưa, mặt khác tạo nên một cái cớ tuyệt diệu để biến cả một đoạn văn thành một bài thơ siêu thực mà trong đó giữa người với cảnh có sự tương thông rất đỗi huyền nhiệm và cái hư phút chốc biến thành cái thực: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ đừ trôi trên một mũi đỏ. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”
Người mơ cảnh cũng mơ, và cái thời điểm “ông khách sông Đà” bỗng nghe ra tiếng chú hươu gọi hỏi chính là đỉnh điểm của giấc mơ đó. Nhà văn đã khéo tạo được một giấc mơ ngay giữa ban ngày để rồi sau đó như sực tỉnh với tiếng động của “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Phút sực tỉnh cũng là phút nhà văn hiến cho độc giả một hình ảnh cực kỳ sống động mà ai được một lần thấy trong đời hẳn phải nhớ mãi.
Bút pháp mượn cái động để tả cái tĩnh đã được vận dụng ở đây hết sức đắc địa. Cảnh tĩnh lặng đến mức chỉ tiếng cá quẫy cũng đủ khiến ta phải giật mình. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, cái tĩnh không đồng nghĩa với sự phẳng lặng, đơn điệu mà vẫn luôn hàm chứa sự bất ngờ, vẫn không ngớt biến hóa. Theo con thuyền thả trôi, điểm nhìn của nhà văn liên tục di động và “di động” hơn nữa là cái nhìn của Nguyễn Tuân. Có vẻ như ông muốn học cách nhìn của “con hươu thơ ngộ”, “vểnh tai”, “nhìn không chớp mắt” những sự vật như hiện lên từ thế giới cổ tích, sau đó truyền sự bỡ ngỡ lại cho độc giả qua những từ dùng độc đáo, sáng tạo, kích thích rất mạnh giác quan và vốn ngôn ngữ của chúng ta: “thơ ngộ”, “đầu nhung”, “áng cỏ sương”, “tiếng còi sương…”.
Vật nào cảnh nào được cây đũa thần của nhà văn động đến đều cựa quậy, không chịp ép mình làm một tiêu bản dẹt. Có lúc, Nguyễn Tuân như vượt qua lề luật của phép diễn đạt thông thường để viết: “Đàn cá đầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Có thể nói câu văn kia đã được viết theo bút pháp của hội họa “lập thể” mà mục đích của nó là muốn cùng một lúc thấy được sự vật ở nhiều chiều. Trước một nét miêu tả rất cô đọng như thế, ta không chỉ thấy mà còn nghe – thấy cái lấp lánh ánh bạc của bụng cá và nghe tiếng quẫy nước rộn ràng vang ngân.
Nguyễn Tuân là người hết sức nặng tình với con sông đất nước. Trong khi thưởng ngoạn vẻ đẹp thơ mộng của Sông Đà, trong ông dậy lên bao mối liên tưởng về lịch sử, dậy lên cảm giác hàm ơn sâu xa đối với cổ nhân. Việc ông nhắc tới đời Lý, đời Trần, đời Lê và câu thơ của Tản Đà cho thấy rõ một thiên hướng bộc lộ cảm xúc rất đặc thù của người từng viết “Vang bóng một thời. Nhưng trước vẻ “hoang dại” của bờ sông Đà, nhà văn cũng có những suy nghĩ mang tính tích cực của người công dân mới, mong cuộc sống hiện đại tỏa chiếu ánh sáng lên cả chốn sơn cùng thuỷ tận. “Tiếng còi sương” xuất hiện ở đây ngân xa như một khát vọng, nó hài hòa với cảm hứng lịch sử, tạo cho đoạn văn một vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa hiện đại.
Đối với Nguyễn Tuân, những cái gì mang trong nó hơi thở ấm áp của cuộc đời đều để thương, để nhớ, để lưu luyến cho ông. Trong những câu cuối của đoạn văn này, ông đã trải lòng mình ra với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe và xúc động: “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Qua mỗi dặm đường đất nước, nhà văn đều thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau rất chặt chẽ.
Chỉ mới qua một đoạn trích ngắn ngủi, ta chưa có điều kiện thấy hết những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Nhưng chừng ấy tưởng cũng đã đủ để ta quý trọng một tài năng, một tấm lòng, một Nguyễn Tuân – con người suốt cuộc đời đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để sáng tạo nên những áng văn đẹp làm phong phú, giàu có thêm đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta. Yêu sông Đà cũng chính là yêu Tổ quốc và yêu con người Việt Nam – những “đồng tác giả” của trăm vẻ đẹp từng làm đắm đuối lòng ta trên “trăm dáng sông xuôi” (ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm).
Phân tích đoạn văn Thuyền tôi trôi trên sông Đà (mẫu 9)
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, nhà văn nổi tiếng trong cả hai giai đoạn sáng tác: trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Ông đã để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn học phong phú với nhiều tác phẩm như Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I, Tùy bút II (1943), Tóc chị Hoài (1943), Nguyễn (1945), Chùa Đàn (1946), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến và hòa bình I (1955), Tùy bút kháng chiến và hòa bình II (1956), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Kí (1976), Chuyện nghề (1976),… Đặc biệt bài tùy bút Người lái đò sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo và tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân trên bước đường đi tìm vẻ đẹp của cảnh và người Tây Bắc – “chất vàng mười” của tâm hồn. Trích đoạn trong đề bài là một đoạn của tùy bút.
Trước đoạn văn này, tác giả trình bày mục đích chuyến đi thực tế Tây Bắc và sông Đà của mình là để tìm hiểu những con người ở đây mà ông gọi là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của cách mạng và kháng chiến, hiện nay dang góp phần vào việc kiến thiết Tây Bắc. Tiếp đến, tác giả giới thiệu tài trí tuyệt vời của những người lái đò sông Đà, đồng thời liệt kê một loạt con thác của sông Đà từ Vạn Yên về xuôi, trong đó có những con thác vô cùng “độc dữ, nham hiểm”. Sau đó, nhà văn khám phá tính chất hung bạo và trữ tình của sông Đà. Đặc biệt là miêu tả hình tượng ông lái đò với tư cách một người lao động đầy trí dùng và một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh. Sau cuộc thủy chiến ác liệt giữa người lái đò và con thác dữ, dòng sông Đà như trở lại bản chất trừ tình vốn có.
Trích đoạn trên đây miêu tả vẻ đẹp trữ tình và cảm xúc của du khách trên dòng sông ấy.
Trước hết là vẻ đẹp trữ tình của một quãng sông êm ả. Nhà văn miêu tả một cách vô tư, khách quan kết hợp với vài suy nghĩ cá nhân:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Thêm vào đó, nhà văn chọn lọc, miêu tả nhiều hình ảnh đẹp, sắc nét: “Một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những non búp”, “một đàn hươu cúi đầu ngốn Lúp cỏ gianh đẫm sương đêm”, “(con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”. Đặc biệt; nhà văn còn dùng thủ pháp so sánh tu từ, nhân hóa tu từ, điệp cấu trúc cú pháp: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nổi niềm cổ tích tuổi xưa”. Dùng các thủ pháp này, một mặt nhà văn miêu tải vẻ đẹp thi vị, hoang dại, cổ kính của dòng sông. Mặt khác, nhà văn gợi được thần thái của nó. Hơn nữa, nhà văn dùng những nét chấm phá rất tài hoa của nghệ thuật hội họa, điêu khắc. Dễ thấy nhất là gam màu nhạt tạo cảm giác trữ tình thơ mộng. Đó là màu xanh non của lá ngô đầu mùa, của nõn búp, của cỏ gianh đồi núi. Đó là màu trắng đực của sương đêm. Đó là màu nhung của đầu con hươu thơ ngộ. Đó là màu “trắng như bạc rơi thoi” của bụng cá. Vả lại, không gian nơi đây rất tĩnh mịch, hoang vắng (ngoại trừ thanh âm của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sóng”).
Đã vậy, cách phối hợp thanh điệu, nhịp điệu của câu văn cũng rất tài hoa. Trong đoạn văn, các thanh bằng chiếm ưu thế, góp phần tạo nên cảm giác êm dịu, lắng đọng nơi chiều sâu cảm xúc. Chẳng hạn, câu mở đầu đoạn văn chỉ toàn thanh bằng: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”.
Bên cạnh đó, thưởng thức đoạn văn chúng ta còn bắt được mạch cảm xúc của du khách – nhân vật trữ tình – trên sông Đà. Cụ thể là sự rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp ngây ngất của thiên nhiên và chiêm ngưỡng vẻ đẹp ấy bàng đôi mắt của một người nghệ sĩ tài hoa. Nhìn cảnh ven sông lặng tờ, người nghệ sĩ liên tưởng tới quá khứ của quãng sông để so sánh, đối chiếu, khám phá ra vẻ đẹp hoang sơ, cổ tích, huyền thoại kì thú của nó cũng như vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn nảy nở, sinh sôi của cảnh vật thực tại. Hơn thế nữa, tình yêu thiên nhiên của người nghệ sĩ ấy rất nồng nàn, tha thiết, ở đây, có một hòa nhập cả tâm hồn mình vào thiên nhiên. Vì người nghệ sĩ ấy với thiên nhiên như một người bạn tri âm, tri kỷ nên rất thấu hiểu thiên nhiên. Thật vậy, tâm hồn nhân vật trữ tình như mơ màng lắng nghe cả tiếng hươu đang thủ thỉ: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đặc biệt, có sự thấu hiểu tâm trạng của dòng sông như thấu hiếu tâm tư, tình cảm của con người. Ấy là tâm trạng nhớ nhung da diết: “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Đó là tâm trạng quyến luyến, mong mỏi được nghe giọng nói của con người: “Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Ấy là tâm trạng vui mừng, sung sướng, tự hào khi được làm bạn đủ loại ghe thuyền xuôi ngược trên sóng nước: “Con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Ngoài ra, với trí tưởng tượng lãng mạn, bay bổng, người nghệ sĩ ấy mượn hai câu thơ của thi sĩ Tản Đà để làm đẹp thêm cái thơ mộng tình tứ của sông Đà:
Dải sông Đà bọt nước lênh bênhBao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.
Vả lại, chúng ta còn cảm nhận được niềm khao khát, mơ ước, hi vọng của người nghệ sĩ về một tương lai tốt đẹp cho vùng đất Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên trên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”. Phải chăng đây cùng là khát vọng chân chính của biết bao văn nghệ sĩ cùng thời Nguyễn Tuân về sự thay da đổi thịt của Tây Bắc?
Nhìn chung, dù độc giả chỉ thưởng thức một đoạn văn ngắn của bài tùy bút Người lái đò sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được rất rõ nét phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn Nguyễn Tuân. Tiêu biểu là phong cách “ngông” thể hiện ở sự tài hoa, uyên bác, lịch lãm trên câu chữ. Tuy tùy bút là một thể văn nhưng chúng ta thấy nhà văn còn phối hợp kiến thức của nhiều môn nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh, địa lí, lịch sử, sinh học, văn hóa, phong tục, võ thuật,…
Riêng trích đoạn trên, sự am hiểu về hội họa, điêu khắc, động vật học, thực vật học, lịch sử học, địa lí học, mỹ học đã giúp nhà vãn cảm nhận, đánh giá đúng vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc. Ở đây, sông Đà được miêu tả như một công trình thiên tạo tuyệt vời, đẹp trong chất thơ trữ tình, da diết. Mặt khác, nhà văn còn nhìn sự vật ở chiều lịch sử, gắn quá khứ, hiện tại với tương lai. Hơn nữa, vốn ngôn ngữ của nhà văn rất giàu, nhiều từ ngữ có giá trị tạo hình biểu cảm cao độ có nhạc điệu trầm bồng, biết co duỗi nhịp nhàng như muôn ganh đua với tài hoa của tạo hóa. Phải là một người nghệ sĩ yêu nước da diết, có trí tưởng tượng đa dạng, phong phú, biết khám phá mê say, thưởng thức cái đẹp kỳ thú của tự nhiên mới có được những trang viết dạt dào khoái cảm thẩm mỹ đến thế!
Trên đây là một trong những trích đoạn đặc sắc nhất của tùy bút Người lái đò sông Đà. Cả tác phẩm cùng như trích đoạn đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình yêu thiên nhiên, đất nước mãnh liệt, yêu những con người lao động chân chính, hăng say và đặc biệt càng thêm yêu vùng đất Tây Bắc xa xôi nhưng giàu tiềm năng của Tổ quốc Việt Nam.
Chứng minh rằng thiên nhiên trong "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân là con sông Đà "hung bạo"
Phân tích hình tượng con sông Đà trong "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân